|
Có
người cho rằng, cũng như con người thì cây tràm ở Mỹ Hòa, Trường Xuân này nói
riêng và cả Đồng Tháp Mười nói chung phải đội bom đội đạn quả không sai chút
nào. Những nhà văn “chuyên” về Đồng Tháp Mười thời đó như Anh Đức, Lê Văn Thảo,
Nguyễn Quang Sáng từng có nhiều trang viết về các cánh rừng tràm ở Đồng Tháp Mười
trong chiến tranh cho đến nay vẫn còn lay động tâm hồn người đọc. Ấy vậy mà cây
tràm như muốn trêu chọc những con người cần cù nơi đây. Hòa bình lập lại. Người
dân Mỹ Hòa,Trường Xuân hồ hởi bắt tay vào trồng tràm. Tràm bén đất lớn lên chưa
kịp thu hoạch thì một trận hỏa hoạn xảy ra. Cả ngàn héc ta tràm bị cháy. Hàng
trăm hộ dân trắng tay. Vua tràm Huỳnh Tấn Tước âm thầm cùng với bà con tiếp tục
trồng tràm, gây dựng lại cơ nghiệp ở cái tuổi hơn bảy mươi, cái tuổi lý ra đã
an nhàn cùng cháu con. Nào ngờ, thêm lần nữa tràm mất giá. Người trồng tràm lao
đao. Cừ tràm không ai mua. Giải thích chuyện này, anh Tư Hội – người có hơn nửa
đời kinh doanh nghề cừ tràm ở vùng này cho rằng: Nguyên nhân dẫn đến việc tràm
rớt giá, không ai mua là do các nhà thầu xây dựng không xài cừ tràm mà chuyển
sang sử dụng cừ sạn, cừ bê tông, cọc nhựa… Lúc đó, các nhà xây dựng chỉ biết ùn
ùn chạy theo ứng dụng khoa học kỹ thuật nên bỏ mặc người trồng tràm rơi vào
tình trạng nửa khóc nửa cười. Tràm xứ này gần như đốn sạch. Nghề khai thác, mua
bán cừ tràm của tôi cũng chỉ cầm chừng. Mua cũng không dám mua. Bán cũng không
có chỗ để bán. Dân Mỹ Hòa, Trường Xuân phá tràm chuyển sang trồng lúa gần như
muốn hết. “Vua tràm” Huỳnh Tấn Tước và mấy người con ông cũng đành chuyển dần
toàn bộ diện tích trồng tràm của gia đình mình sang trồng lúa.
Trong khi “vua tràm” Huỳnh Tấn Tước,
người bỏ cả đời sống chết cùng cây tràm còn phải xót xa nhìn diện tích tràm
mình gầy dựng ngót nghét năm mươi năm ngày càng thu hẹp dần thì Huỳnh Tư lại
nghĩ khác. Cây tràm xuống giá thì ắt cũng có ngày lên giá. Ai phá bỏ không trồng tràm lại thì Huỳnh Tư tìm
vào Trường Xuân mua đất trồng tràm. Mọi chuyện đều có cơ duyên của nó. Huỳnh Tư
vốn xuất thân từ một công nhân lái máy cày rồi trở thành một đại lý bán các loại
máy nông cụ nhỏ. Sau lần lên Đắc Lắc định tìm nơi đầu tư và mở rộng việc kinh
doanh các máy móc phục vụ nông nghiệp thì một cơn bệnh về gan khiến cho người
đàn ông lực lưỡng đang ở độ tuổi chưa đầy bốn mươi phải gục ngã. Mọi chuyện tùy
duyên số chớ không thể cưỡng cầu. “Vua tràm Huỳnh Tư” giải thích cho sự có mặt
của mình ở đây mà không hề có chút tiếc nuối gì khi ước mơ lập nên nghiệp lớn ở
Tây Nguyên không thành. Những ngày đầu trở về nhà dưỡng bệnh, Huỳnh Tư nhìn cảnh
cây tràm xứ mình lần lượt bị chặt phá dần dần mà xót xa trong dạ. Nhất là tối đến,
không ngủ được do căn bệnh gan hoành hành, Huỳnh Tư lại nhớ đến chuyện cây
tràm. Biết bao ngôi nhà khang trang mọc lên, biết bao gia đình từng thoát
nghèo, biết bao con em xung quanh được học đại học tất cả cũng từ cây tràm mà
ra. Còn nay sao xơ xác, tiêu điều đến vậy. Năm 1998, Huỳnh Tư bắt đầu mua đất.
Một chỉ một công, không chút đắn đo, nhà có nhiêu vàng tích lũy được ông đổ ra hết
mua đất hết. Hồi chiến tranh gian khổ, nay tràm bị đốt, mai tràm bị bỏ bom ngã
gục mà chú Út Tước (tức “vua tràm” Huỳnh Tấn Tước) đã cùng với bà con chịu đựng
gian khó, đương đầu với sống chết để trồng tràm thì nay sung sướng như vầy mà tại
sao mình không làm được. Đất cải tạo xong, sạ giống kín hết không còn sót chỗ
trống nào. Dự định sẽ có tràm con để bán cho những người xung quanh. Số còn lại
thì trồng trên đất mình. Nào ngờ người tính không qua trời tính. Mùa nước nổi
năm 2000 nhấn chìm hết toàn bộ diện tích tràm con gần 3 tháng tuổi chỉ chờ nước
giựt là có thể đem trồng được. Vốn liếng mấy trăm cây vàng tích cóp từ những
năm làm nghề mua bán các loại máy nông cụ hao hụt hơn nửa. Mùa nước năm 2000 cướp
trắng của Huỳnh Tư hơn tỷ bạc. Đất đai không phụ người, chỉ có người phụ đất
đai thôi. Huỳnh Tư chợt nhớ văng vẳng bên tai câu nói của ai đó như nhắc nhớ
mình phải bám đất mà sống. Thua keo này bày keo khác. Sẵn cái máu liều trong
người, Huỳnh Tư tính tiếp chuyện làm ăn mới. Qua Tân Thạnh, Long An hợp đồng
hùn trồng tràm giống với mấy người quen thì do cả tin bị gạt gẫm gần chục cây
vàng nữa.
‘Vua tràm” Huỳnh Tư thản nhiên kể lại
những trần ai khổ ải của ngày đầu tiên bén duyên cùng cây tràm ở đất Mỹ Hòa, Trường
Xuân. Trong con người ở tuổi gần bảy mươi với nhiều bệnh nan y trong người như
viêm gan mãn tính, viêm thận mãn tính và tiểu đường đến độ phải tiêm thuốc hàng
ngày vẫn tỏa lên một vẻ lạc quan trước cuộc sống. Một trăm héc ta tràm nằm rải
rác khắp nơi từ Mỹ Hòa vào Trường Xuân không bao giờ vắng mặt ông Huỳnh Tư. Cái
đất Tháp Mười này nó kỳ lạ lắm. Phèn cỡ nào thì cỡ nhưng biết cách chút là cây
tràm sống được. Mà cái cách lên liếp trồng tràm ở đây cũng khác hơn người ta.
Bên Mộc Hóa thì đào mương bề ngang một thước sâu một lớp len lấy đất lên liếp.
Còn ở miệt Cà Mau thì lên liếp bằng cách đào con kinh rộng bốn thước, sâu cả thước.
Mình thì cứ bảy tám thước lớp đất mặt thì xẻ một con kinh rộng khoảng thước rưỡi,
sâu cũng chừng đó lấy đất lên liếp là tràm đặt xuống tới đâu bén rễ tới đó. Mà
tràm trồng để cung cấp cho các công trình xây dựng là cừ phải là loại tràm nước
mới được. Chớ trồng phải tràm bông vàng thì bán không ai mua. Còn làm sao phân
biệt hai loại này à. Dễ ẹc! Tràm nước là loại cây có
khả năng chịu nước mặn và nước có độ phèn cao, trồng khoảng 3 – 4 năm có thể
đốn làm cừ được rồi. Khi đóm cây thể đạt 3 đến 5 thước, đường kính thân cây
có từ 6 phân đến tấc hai, thân thẳng và
rất dẻo. Lá có màu xanh, hình trứng và đan so le, rộng khoảng một phân và dài
chừng sáu phân. Rồi anh còn bày cách phân biệt thế nào là tràm gió, tràm bầu, tràm
trà, tràm bông đỏ, tràm bông vàng, tràm liễu… để sau cùng thì chốt lại một câu
gọn hơ: Mấy thứ đó ở đây không biết làm gì. Mình chỉ làm loại tràm cừ thôi. Làm
cái gì cùng cần am hiểu cho tận cùng thì ắt sẽ thành công. Đó là bài học mà
Huỳnh Tư rút ra sau bao năm lăn lộn với cây tràm.
Còn giá cả
hiện này à. Qua năm 2000 trở đi, tràm cừ thêm một lần giảm giá đột ngột. Một công
tràm chỉ bán được vài ba triệu không đủ chi phí thuê nhân công đốn và mua tràm
giống trồng lại. May thay, tình trạng này chỉ kéo dài mấy mùa. Nguyên nhân tại
sao à? Nghe đâu cũng lại cọc nhồi, cọc ép gì đó nhưng cuối cùng vẫn chịu thua
cây tràm. Lần nọ, mấy ông thầu xây dựng cho một công trình xây dựng khu công
nghiệp nào đó ở Bình Dương ghé đây tìm mua cừ tràm hỏi ra mới biết các giám sát
nước ngoài đòi phải dùng cừ tràm họ mới chịu. Cây cừ ngoài yếu tố thẳng, phải
dài đúng 4 thước, đường kính ngọn cừ phải đúng 6 phân trở lên. Họ nói cừ tràm
của mình có khả năng chịu nước cực tốt hơn bất kỳ vật liệu nào mà giá thành rẻ
nữa thì sao không sử dụng. Vậy là từ năm 2003 tới nay, giá tràm cứ tăng lên và
giờ thì đạt ngưỡng như thời vàng son của những năm 1998 rồi. Tức xấp xỉ mười
lăm hai mươi triệu một công tùy theo tràm tốt xấu. Một trăm héc ta tràm của tôi
với giá cả hiện nay thì một năm mười tỷ là cầm chắc. Mình bền lòng chặt dạ với
cây tràm thì hổng lẽ khổ hoài hay sao? Còn “vua tràm” hả? Tôi lại nhớ chú Út
Tước. Dù thời của chú chỉ 40 héc ta thôi nhưng là 40 héc ta trong sống chết,
trong bom đạn với cả một tấm lòng yêu nước muốn có tràm thiệt nhiều để rừng che bộ đội, rừng vây quân như sinh
thời chú thường hay nói. Còn tôi, thì phải gian truân với đất đai, nhọc nhằn
với cuộc đời lắm mới được như vầy. Mình nhiều thì diện tích có nhiều thiệt
nhưng so với những người từng đổ xương máu khai phá vùng đất này, đó mới là
những “vua tràm” thứ thiệt.
Theo lãnh
đạo Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tháp Mười thì hiện nay,
toàn huyện ngoài khoảng gần 300 héc ta tràm phòng hộ ở Gò Tháp không được khai
thác thì ở khu vực Mỹ Hòa,Trường Xuân chỉ còn khoảng hơn một ngàn héc ta tràm
được phép khai thác tràm cừ. Với sở hữu một trăm héc ta tràm như hiện nay,
người dân địa phương gọi ông Huỳnh Tư là “Vua tràm” thời hiện đại không ngoa
chút nào.
HỮU NHÂN
Kỳ V: Người làm ra hạt lúa ruột tím
|
|