|
NGHỀ CHÀI CÁ Ở VÙNG CAO LÃNH
DƯƠNG VĂN TRIÊM
Đồng Tháp Mười nói chung và vùng Cao Lãnh nói riêng,
từ thuở xưa có rất nhiều cá. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn phong phú về
chủng loại.
Từ xưa, người ta đã biết tổ chức rất nhiều cách thức
đánh bắt cá. Tùy vào điều kiện địa hình mà có cách đánh bắt thích hợp. Có thể
tạm chia thành hai nhóm: đánh bắt trên
sông và đánh bắt trên ruộng.
Đánh bắt trên
ruộng (đào đìa): Đìa được đào vào mùa
khô, ở giữa ruộng lúa, có thể chất thêm chà, làm ụ để giữ cá khi mùa nước lên,
sau đó nước rút thì tát cạn nước trong đìa để bắt cá. Cá bắt được ở đìa là cá
đồng: cá lóc, cá bông, cá trê (vàng, trắng), cá rô, cá sặt rằn (lò tho), tôm,
lươn, rùa... Người ta thường bắt những con lớn, vì cá quá nhiều, có đìa thu
hoạch đến vài tấn.
Đánh bắt trên
sông (đắp đập): Đây là cách thức hữu hiệu nhất để đánh bắt, nó không phụ
thuộc nhiều vào tính may rủi như các cách thức khác. Khi xác định khúc sông có
cá, người ta sẽ làm đập chặn lại, ngăn cá không thoát ra ngoài. Để có thể đánh
bắt bất cứ thời điểm nào khi cần, không phụ thuộc vào thời gian.
Trong từng nhóm đánh bắt trên, tùy vào điều kiện và
yêu cầu thực tế mà sử dụng nhiều loại ngư cụ khác nhau. Và những loại ngư cụ
này không ngừng được cải tiến theo thời gian.
Ngư cụ đánh bắt trên sông phổ biến là chài. Chài có
thể đánh bắt cá ở những khúc sông có đập hoặc không có đập. Là một loại ngư cụ
đánh bắt cá phổ biến trong thời gian dài và là sinh kế của những hộ gia đình
không có đất hoặc ít đất canh tác. Chài có hình chóp, dài khoảng 5 đến 6 mét,
mắt lưới khoảng 1 - 2 phân. Tùy theo nhu cầu sử dụng mà khoảng mắt lưới thay
đổi rộng hẹp khác nhau.
Để một miệng chài đạt yêu cầu, người thợ tự gia công,
chứ không mua. Phần lớn những người biết chài đều biết đươn chài.
Nguyên liệu đươn
chài là chỉ và công cụ là ghim, cự, xa quay chỉ. Chỉ có 2 loại: chỉ và gân.
Chài gân được sử dụng nhiều hơn, vì
nó mau chìm, bén cá. Còn chài chỉ
dùng nhiều trong những vị trí có ụ gốc, chà… do nó ít bị rách.
Con cự là một dụng cụ bằng tre dài khoảng 5 tấc, dùng
để định dạng kích thước của mắt chài khi đươn
hoặc vá.
Khi chài bị rách, người thợ trực tiếp vá. Khi chài mới
đươn người ta dằn chài cho xếp các
mối đươn để tránh trường hợp các mối đươn bị mắc vào nhau khi vãi chài.
Có 2 cách vãi chài: chài ba mớ và chài kiểu.
Chài ba mớ: Người ta chia chài thành ba mớ để vãi (gọi một cách
dân dã là quăn cà ràng). Tay phải
phăn dây chài, đến gần đáy chài khoảng 1 thước, kéo một mí chài máng lên cùi
chỏ tay phải, tay trái nắm một mí ngay tận tùng chài, rồi lấy đà, tung mạnh
chài về phía trước mũi xuồng.
Chài kiểu: Cuốn dây dụi chài thành khoanh tròn có đường kính
khoảng vài tấc. Thân chài gấp khúc, đoạn gấp khúc khoảng 3 tấc. Đến chừng cao
hơn đầu người vãi một chút thì gối đầu chài. Nắm một mí chài đặt lên gối đầu,
tay nghịch giữ phần gối đầu, tay thuận đặt ở khoảng giữa phần thân chài còn
lại, tại mí. Rồi từng ngón tay nắm từng phần chài, khi nào đầy, chuyển sang
ngón khác. Để vãi chài ra tròn ổn định, ngón tay đầu nắm lượng chài ít, rồi
tăng dần lên, lấy đà từ phía sau tung chài về phía trước.
Những người làm nghề chài cá thường sống ven sông ở Mỹ
Trà, Mỹ Tân, Tân Nghĩa, Phương Trà… Phương tiện hành nghề chính là xuồng Cần
Thơ có cà - rèm. Ban đêm thì dương cà - rèm ngủ. Ban ngày, khi chài thì xếp cà -
rèm. Người làm nghề chài đem theo bếp lò, nồi, gạo để nấu cơm. Họ thường ra đi
từ nhà vào lúc chiều hoặc đêm, đi riêng hoặc theo đoàn. Một xuồng, có 2 người
có thể là vợ chồng, anh em, cha con. Họ đi đến các kinh ở sâu vào đất ruộng như:
kinh Thầy Thuốc, kinh Lô Số 7… Những kinh này ít dân cư sinh sống, còn hoang
sơ, cá chưa bị khai thác nhiều. Một chuyến đi trong vòng 2 - 3 ngày thì về. Cá
chài được cũng rất phong phú từ cá sông như: cá ngựa, rằm rừng, cá trèn, cá
kết… đến cá đồng như: cá lóc, cá rô, tôm… Xuồng có khoan đục rộng cá.
Những chuyến chài nào nhiều cá lóc và tôm là xem như
có thu hoạch. Cá thu hoạch được người
ta đem bán ở chợ hoặc cân cho bạn hàng cũng tại chợ.
Gặp những chuyến chài thất, người làm nghề cúng vái Bà
Cậu... Lễ vật cúng thông thường là bộ tam sên. Ở các xuồng chài, có thể do diện
tích xuồng nhỏ nên không có lư hương hay trang thờ riêng Bà Cậu. Họ chỉ khấn
vái khi cần. Do vậy nghề chài cá, còn được gọi là nghề Bà Cậu.
Thời gian dần trôi, khi nguồn lợi thủy sản ngày càng
cạn kiệt thì cách thức đánh bắt cá này cũng dần mất bóng theo thời gian.
D.V.T
|
|