|
NGUYỄN LỆ BA
MÙA
BẰNG LĂNG TRỔ BÔNG
Xe dừng lại
trên bãi biển. Những người trên xe ùa xuống bãi cát, mắt ngơ ngác nhìn quanh. Họ
mệt mỏi đặt bước chân đầu tiên lên những đụn cát nóng hầm hập. Gió biển từ
ngoài khơi nương theo những đợt sóng xô vào bờ, mang theo vị muối mặn chát.
Giáp bờ cát nóng bỏng là những vạt rừng thưa xơ xác, héo khô, trải dài đến cuối
tầm nhìn. Dưới chân họ, những ngọn rau muống biển cố nhoài ra mép nước như muốn
lên tiếng về sự sống cuối cùng còn sót lại giữa bốn bề khô héo.
Nắng đổ lửa
lên đầu những con người đang cúi khom mình đi trong gió biển phần phật thổi. Họ,
những nông dân của ruộng đồng, vườn tược… dắt díu nhau đi về phía biển tìm lấy
sự sống, bỏ lại sau lưng những cánh đồng khô nẻ, những vườn cây ăn trái úa vàng
dưới cái nắng thiêu đốt chưa từng có từ hàng trăm năm qua. Những người đi trước,
dựng tạm chòi lá trên bờ đất tiếp giáp biển đón người đi sau. Những chòi lá dựng
tạm bợ dang tay níu lấy nhau, kiên cường gồng mình chống đỡ gió biển quăng quật
từng cơn suốt đêm ngày. Hàng trăm con người tụ họp về đây, chia nhau từng miếng
cơm, giọt nước để sống qua những ngày nắng hạn. Thanh niên trai tráng theo thuyền
ra khơi cùng dân xứ biển thả lưới, cào tôm. Phụ nữ, người già và trẻ em ở lại bờ
phụ giúp lựa cá, phơi khô, nhặt nhạnh rác tìm những thứ bán được. Rác đổ ra từ
cửa sông cái, trôi xuôi theo dòng hải lưu, dạt vào bờ thành những núi rác chạy
dài hàng cây số. Họ bươi rác tìm chai lọ, bọc ni lông, mọi thứ… đem về giặt
giũ, phơi phóng bán lấy tiền mua gạo… Trong cơn biến chuyển khắc nghiệt của đất
trời, đám người di trú ấy rủ nhau về đây, sống hòa mình cùng dân địa phương, tạo
thành một xã hội nhỏ, trao đổi những thứ mình có để tồn tại qua mùa đại hạn.
Thanh, tay dắt
mẹ chồng, tay mang túi đồ dùng cá nhân, lê từng bước nặng nhọc theo đoàn người
đi về phía trước. Biển với Thanh không lạ. Mùi gió biển mang vị muối chỉ gợi
chút nôn nao khi chị nhớ về Bình Thuận quê mình. Đó là vùng đất đầy nắng và
gió, mùa này cũng đang oằn mình trong nắng cháy. Hình ảnh quê hương hiện lên
loáng thoáng trong đầu Thanh cùng nỗi nhớ đôi lúc cồn lên chà xát ruột gan.
Phan Thiết không xa nhưng nhiều năm rồi Thanh không về. Về làm gì, nhiều lần
Thanh tự hỏi. Mảnh đất khô cằn của mẹ cha để lại nằm dọc bờ biển đầy đá sỏi,
nay người anh trai cùng mấy đứa cháu vẫn cố bám lấy trong cuộc sống no ít, đói
nhiều. Ở đó còn gì để chị lưu luyến? Ra đi mấy mươi năm trước, Thanh chưa bao
giờ có ý nghĩ quay về nơi mình đã sinh ra. Cô gái xinh tươi, mặn mà xứ biển nay
đã là một góa phụ tuổi 45, cằn khô và lụi tàn ước mơ, khao khát. Bình Dương,
nơi Thanh gặp chồng, sống chung trong cuộc hôn nhân ngắn ngủi không hỏi cưới. Một
năm sau, khi hương lửa ân ái còn mặn nồng, chồng Thanh ra đi trong một tai nạn
đột ngột. Thanh mất phương hướng. Đi đâu và về đâu? Về cùng gia đình anh ruột để
bám vài mẫu đất sỏi đá, sống lay lắt cùng lũ cháu? Về miền Tây, nơi có bà mẹ chồng
đang sống thui thủi một mình trong căn nhà lá rách nát? Hay tiếp tục làm kiếp
công nhân nơi xứ người, ngày quần quật với công việc, đêm về vùi đầu trên gối
trong giấc ngủ cô đơn đầy nước mắt và mộng mị? Cuối cùng, Thanh đi đến quyết định
đầy bản năng phụ nữ là về với mẹ chồng để chăm sóc bà trong những ngày tháng cuối
đời…
- Ráng thêm
chút nữa đi má. Gần tới nơi rồi!
Thanh chỉ tay
về phía những căn chòi lụp sụp dựng sát bờ biển. Nắng trưa soi rõ những giọt mồ
hôi lấm tấm trên mặt chị, chảy thành dòng, dính bết những sợi tóc mai. Thanh bỗng
trở nên mạnh mẽ, chị kề lưng vào vai mẹ, dìu bà bước nhanh về phía trước. Hai mẹ
con ngồi bệt xuống trước cửa một căn chòi lá. Giờ này mọi người đã đổ ra bãi biển,
bỏ lại nơi đây những căn chòi trống trải phơi mình trong nắng gió. Thanh chưa
biết mình sẽ ở đâu, làm gì khi đến đây. Chị có thể lựa cá, phơi khô, khuân vác
hay làm bất cứ việc gì để có miếng ăn cho hai mẹ con. Một tương lai vô định ở
phía trước nhưng Thanh vẫn thấy vững tâm vì tin ở đôi tay và sức lực của mình.
Hai mẹ con ngồi
bó gối nhìn ra biển. Biển mênh mông với những điều không lường trước. Thanh tự
hỏi, sao lại phải đến một nơi mà trước mặt không bến bờ? Đồng bằng nơi chị và mẹ
sinh sống đang chìm trong nắng hạn. Những miệng giếng khoan đã cạn nước. Số ít
giếng còn lại nước đã chuyển dần từ mằn mặn sang chua loét vị phèn. Những con
sông cạn nước trơ đáy, bùn non tưởng như sôi lên sùng sục dưới cái nắng kinh
người. Nắng và nắng. Vạn vật sắp cháy ngùn ngụt, sắp bốc thành lửa, sắp biến ra
tro… Sống ra sao, trồng cấy gì với tình cảnh này? Nhiều lần Thanh đội trên đầu
vài chục lít nước sông đục ngầu, đi hàng cây số về tắm táp, nấu ăn. Cả làng chị,
cả vùng,… đâu đâu cũng chìm trong nắng hạn và khô khát…
*
- Làm ăn cẩn
thận nghe, cô em!
Thanh giật
mình khi nghe tiếng đàn ông vang lên sát bên lưng. Chị đang phân loại cá cho
vào giỏ tre, chất lên xe tải chở về kho lạnh. Thanh ngước nhìn lên và chạm phải
cái nhìn như muốn xuyên thấu lớp quần áo chị đang mặc. Người đàn ông trạc tuổi
60 với chiếc đầu hói, cái bụng phệ, đôi mắt ti hí và môi dưới trề xuống nhìn
Thanh như giễu cợt. Chị bỗng thấy khó chịu, giọng lí nhí:
- Dạ
anh, em sẽ cẩn thận!
Hắn cười đểu
giả, búng mẩu tàn thuốc bay vèo trong không khí, nói bâng quơ:
- Muốn
có tiền thì phải chịu khó, em yêu!
Hắn bỏ lại
câu nói khiếm nhã trước khi quay lưng bước về chiếc xe tải nhỏ có người tài xế
ngồi chờ. Thanh dừng tay trong cảm giác ngột ngạt. Chị hít một hơi thật sâu để trấn
tĩnh, nhìn bao quát bãi cát đầy rác rưởi bẩn thỉu, nơi hàng trăm phụ nữ, trẻ em
đang làm công việc giống như chị mỗi khi đoàn tàu đánh cá từ ngoài khơi lần lượt
kéo vào bờ. Chị thở dài nhìn đôi chân mình ngập sâu trong bùn cát. Những đợt
sóng tiếp nối nhau xô vào bãi mang theo bọt bèo, rác rưởi và mùi tanh nồng nhớt
cá. Chị nghĩ về mẹ chồng, người đàn bà gầy gò, bệnh tật đang đợi chị về cùng ăn
bữa cơm trưa. Nếu không vì con người khốn khổ ấy, chắc chắn chị đã không có mặt
ở đây. Ý nghĩ đó tiếp thêm sức mạnh. Chị thở hắt ra, cúi khom người vác giỏ cá
lên vai bước nhanh về phía chiếc xe tải đang đậu chờ hàng. Thanh không nhìn lên
nhưng cảm giác có đôi mắt thèm khát từ người ngồi trong ca - bin dán lên ngực
chị.
-
Nè cô em! Có muốn làm thêm kiếm tiền không?
-
Dạ, làm gì anh?
-
Làm ca đêm, từ 8 giờ tối tới 12 giờ khuya. Phân loại cá!
Thanh
chần chừ:
-
Dạ, để em suy nghĩ lại…
- Hừm, còn phải
suy nghĩ gì nữa. Làm đêm tiền gấp trăm lần mà còn sướng thân nữa!
Thanh kéo chiếc
khăn rằn quấn ngang cổ che lấy mũi. Chị nghe trong câu nói của người đàn ông có
lẫn mùi tiền và mùi tanh của cá. Quay xuống mép nước, Thanh nghe tiếng cô gái
làm chung nói nhỏ sau lưng:
-
Đừng đi làm ban đêm, nghen chị!
-
Sao vậy? - Thanh ngạc nhiên hỏi lại.
Cô
gái ngập ngừng:
- Thì…
em nói vậy mà!
Một
lúc sau, cô gái lân la bắt chuyện:
-
Chị thấy thằng bé ở trần đứng cạnh xe tải lúc nãy không?
-
Thấy! Con của em à?
-
Dạ, con em. Chị thấy nó giống ai?
Thanh không
hiểu cô gái muốn nói gì. Chị cố nhớ và cố hình dung về một gương mặt đã từng thấy
đâu đó nhưng không tài nào nhớ nổi. Đôi mắt ti hí và cái trán trợt không gợi
trong Thanh về bất cứ điều gì…
Buổi trưa
quay về chòi, Thanh thấy mẹ nằm co người ngủ trong cái nóng hầm hập. Bà Tâm dạo
này yếu hẳn. Những cơn ho khục khặc về đêm, đôi mắt trũng sâu và tấm thân gầy
gò lê những bước đi khó nhọc lần mò nấu hai bữa cơm chờ con dâu về cùng ăn… Điều
đó làm Thanh xót xa. Bản năng nhân hậu của người phụ nữ cùng sợi dây liên hệ vô
hình nào đó đã buộc chặt hai người đàn bà vào nhau như một định mệnh.
*
Bà Tâm bước
chậm trên bãi cát, nơi đám người làm thuê trải những tấm lưới cước trên bờ biển
để phơi ruốc. Bà dừng lại ôm ngực nén cơn ho, hỏi người đàn bà trạc tuổi đang
loay hoay cào ruốc:
-
Chị là dân xứ này phải không?
-
Không, tui là dân miệt biên giới, dạt về đây làm mướn kiếm cơm.
-
Con cháu chị đâu mà phải cực khổ như vậy?
- Còn đứa nào
nữa đâu. Già rồi mà phải nai lưng bươi quào kiếm sống, bà chị!
Bà Tâm nhìn
quanh. Dọc bờ biển uốn cong chạy dài đến cuối tầm mắt, nhiều phụ nữ có tuổi
cũng đang làm công việc nặng nhọc này, áo quần họ ướt đẫm mồ hôi dưới cái nắng
cháy da.
- Tiền
công khá không bà chị? - Bà Tâm hỏi.
- Trăm
rưỡi một ngày. Cơm mình. Ngày làm 8 tiếng.
Đến lúc này, người đàn bà phơi ruốc mới ngước
mặt nhìn lên. Làn da đen sạm, đôi mắt trũng sâu trên khuôn mặt hốc hác làm bà
Tâm giật mình.
- Bộ
bà chị tính làm chuyện này hả? - Người đàn bà hỏi.
- Thì... hỏi
vậy mà! Tui cũng đang túng quẫn, cần chút đỉnh tiền lo trị bịnh.
- Mèn ơi! Bà
chị không quen nắng, chịu sao cho thấu cái trời đất ác nhơn này!
Bà Tâm im lặng.
Bà nghĩ tới con dâu giờ này cũng đang oằn mình với những giỏ cá nặng trên lưng,
mồ hôi và nhớt cá ướt đẫm lưng áo.
Một
tuần sau, bà Tâm có mặt trong đám đàn bà phơi ruốc trên bãi biển. Bà đi làm sau
khi đã nấu cơm để lại chòi. Bà không muốn Thanh biết
bà nhận làm công việc cực nhọc này nên ra đi và trở về trước khi Thanh xong việc
vác cá ngoài bãi biển. Công việc của bà đơn giản, chỉ là đảo ruốc vài lần mỗi
giờ. Dù gắng gượng hết sức, nhưng với bà, đây là công việc quá sức chịu đựng bởi
cái nắng thiêu đốt dội lên tấm lưng còng vốn đã trĩu nặng nhọc nhằn mấy chục
năm qua. Chiếc cào sắt nặng nề như khối đá ghì nặng xuống đống ruốc. Bà run rẩy
kéo từng nhát cào khốn khổ trên những con ruốc đang khô dần dưới nắng nóng. Mồ
hôi bà vã ra. Nhiều lần bà dừng tay vuốt mồ hôi, gượng đứng thẳng người lên, thở
dốc. Người đàn bà làm bên cạnh ái ngại:
- Sao rồi bà
chị? Nhắm kham nổi không?
Bà Tâm gượng
cười để giấu vẻ thất thần trên gương mặt nhăn nheo:
- Được mà! Chắc
làm ngày đầu chưa quen thôi…
Gần trưa, đám
phụ nữ phơi ruốc xúm nhau nghỉ ngơi dưới những bóng cây thưa còn sót lại trên cồn
cát. Họ giở cơm ra ăn, chuyện trò, cười đùa cho quên nỗi mệt nhọc và cảm giác ê
buốt nơi hai cánh tay. Bà Tâm không ngồi với họ. Bà còn phải đi bộ hơn cây số để
kịp về ăn cơm với con dâu.
Buổi chiều
ngày làm việc thứ bảy, bà Tâm nhận được tiền công từ tay chủ. Chỉ hơn triệu bạc
nhưng tay bà run run đón lấy những đồng tiền quý giá kiếm được từ chính sức
mình. Bà sẽ giấu kỹ con dâu số tiền này, dành khi về quê ra chợ huyện mua cho
nó đôi bông tai. Tội con nhỏ, về làm dâu
nhà mình có cưới xin gì đâu! Làm quần quật cả ngày vì gia đình nhà chồng, thèm
món ngon cũng không dám mua ăn, ra đường chỉ vài bộ quần áo cũ thay đổi. Bà
Tâm ứa nước mắt khi nghĩ về điều đó...
Chồng bà Tâm
mất sau hai năm chống chỏi với căn bệnh ung thư gan. Ruộng vườn bán sạch mà người
vẫn ra đi. Thằng con trai duy nhất của bà
phải rời quê lên Bình Dương làm công nhân lấy tiền gửi về nuôi mẹ và trả
nợ cho cha, bà mẹ già đành gửi lại nhờ xóm giềng tới lui thăm hỏi khi tối lửa tắt
đèn... Nửa năm sau, con trai bà gọi điện thoại về nói đã lấy vợ, một cô gái miền
biển. Bà mừng rơi nước mắt. Vậy cũng xong. Muốn cưới hỏi đàng hoàng bà cũng
không có tiền mà lo. Nhưng vui chưa được bao lâu, một hôm tin sét đánh gọi về: con trai bà chết trong tai nạn giao thông
trên đường đi làm. Bà Tâm chết lặng. Nước mắt khóc chồng chưa kịp khô thì lại
phải khóc con. Xác con trai đưa về quê với cô gái trẻ bưng linh vị chồng đi trước.
Đứa con dâu bà từng mong biết mặt, lần đầu về quê chồng rũ rượi trong màu áo và
vành khăn tang trắng. Từ đó, căn nhà quạnh quẽ của bà có thêm một góa phụ, cả
hai lầm lũi nương tựa nhau mà sống. Bao nhiêu năm như thế trôi qua, bà không nhớ
nổi. Bà Tâm ngày càng còm cõi hơn với tuổi già và bệnh tật, trong khi con dâu
bà từ một thiếu nữ xinh đẹp tràn trề sức sống dần trở thành người đàn bà hương
sắc tàn phai. Những nếp nhăn sau đuôi mắt con dâu khiến bà Tư đau xót khi lén
nhìn. Bộ ngực đầy đặn thanh xuân dần chảy xệ qua những mùa mưa nắng. Đã không
ít đàn ông tới lui ve vãn ngỏ lời, bà Tâm cũng lựa tiếng nói thêm, vậy mà Thanh
vẫn lạnh lùng như khối đá trơ gan với thời gian. Nhiều lần trong bữa cơm, bà
Tâm dịu dàng nhắc:
- Con coi chỗ
nào được thì ưng làm chồng để nương tựa tấm thân. Má già rồi, sống bao lâu nữa
đâu!
Thanh lơ đãng
trả lời mẹ như nói chuyện của người khác:
- Thôi má, đừng
nhắc chuyện này với con nữa.
Mấy ngày nay
trời ẩm ướt, gió biển thổi ào ào qua vách lá làm bà Tâm khó ngủ. Những cơn ho khan giữa đêm làm giấc
ngủ của bà trở nên khó khăn, nặng nhọc. Thanh ngủ vùi sau cả ngày làm việc cật
lực ngoài bãi biển. Thi thoảng trong giấc mơ, con dâu quàng tay ôm lấy mẹ chồng
như muốn tìm hơi ấm. Bà Tâm nhìn con, khóc lặng lẽ trong đêm. Nước mắt già nua
không đủ chảy thành dòng, nó ngấm sâu vào lòng bà, mặn đắng…
Sáng
nay đi làm, bà Tâm thấy trong người khang khác. Chiếc cào sắt
trong tay bà ghì nặng như khối đá trong mớ ruốc. Mặt trời lên cao, nắng phả hừng
hực xuống tấm lưng ướt đẫm mồ hôi của bà. Nhiều lần bà phải dừng cào, chống nạnh
cố đứng thẳng người lên, há miệng như muốn nuốt lấy ngụm không khí đang nghẹn
ngang cổ họng. Biển phía trước mặt bà thoắt ẩn, thoắt hiện trong màn sương, rõ nét rồi mờ mịt và cuối
cùng… trắng xóa một màu! Bà chỉ kịp ngồi xuống trước khi đổ gục trên nền cát
nóng…
Người quen hớt
hải báo cho Thanh tin bà Tâm ngất xỉu trên bãi phơi ruốc. Thanh hất giỏ cá trên
lưng xuống cát, chạy băng băng dọc bãi biển tìm mẹ. Má ơi! Sao lại khổ như vầy! Má ơi! Tiếng chị gọi mẹ lạc trong tiếng
sóng, vọng lừng lững trên những đụn cát chang chát nắng. Chị chạy như người mất
trí, những bước chân bấn loạn cào đau đớn trên cát hòa trong tiếng gọi mẹ khản
giọng… Chị không gặp mẹ trên bãi phơi ruốc. Có người đã vác bà chạy bộ về phía
đường cái, gọi xe đưa đi cấp cứu… Thanh đến bệnh viện với đôi bàn chân nát những
vết cào xước rướm máu. Gặp mẹ trên giường bệnh, chị lao tới ôm lấy bà, gục đầu
lên ngực khóc nức nở: Sao lại ra nông nỗi
này, má ơi!
*
Mấy ngày nay
gió chuyển ngọn Tây Nam. Gió từ biển thổi vào cũng bớt đi vị nồng của muối. Từ
vạt rừng đước khô trụi lá, hơi nước tràn ra, đem theo nó cái dịu mát khiến vạn
vật chuyển mình thức giấc. Những thân cây còi cọc, xác xơ mọc dọc theo bờ biển
bỗng cựa mình nẩy những chồi non đầu tiên xanh biếc. Sức khỏe bà Tâm dần hồi phục.
Thanh không ra biển vác cá nữa. Chị ở nhà lo chăm sóc thuốc men, cơm cháo cho mẹ
chồng. Những đồng tiền cuối cùng dành dụm được đã hết sạch. Bà Tâm đi lại được
với đôi chân liêu xiêu, run rẩy lần từng bước chậm chạp dọc bãi biển…
Buổi trưa,
như thường lệ, bà Tâm được con dâu dìu ra bờ cát ngồi trò chuyện với những người
đàn bà cùng tuổi. Mấy ngày nay mọi người không đi làm, họ rục rịch chuẩn bị cho
chuyến về quê. Những đồng tiền quý giá tích góp sau vài tháng đổ mồ hôi nơi bãi
biển được gói kỹ trong khăn, chờ ngày về gieo trồng mùa vụ mới. Quê hương với
những cánh đồng và vườn cây ăn trái ngày đêm lên tiếng vẫy gọi. Trái tim tưởng
đã nguội lạnh của bà Tâm bỗng run rẩy, cồn cào nỗi nhớ nhung lạ lùng về dòng
sông, bến nước và căn nhà lá nơi bà và con dâu nhiều năm chung sống. Về thôi.
Phải sớm về thôi!
Bà Tâm đứng
lên, lần từng bước chậm chạp đi về phía căn chòi lá của mẹ con bà. Vừa nãy, lúc
dìu bà xuống bãi cát hóng gió, Thanh ân cần dặn kỹ từng lời:
- Má cứ ngồi
đây nghỉ ngơi cho khỏe. Ở trong chòi giờ này nóng bức lắm. Chừng nào má mệt con
sẽ xuống dắt má về!
Ngồi chưa
lâu, bỗng dưng bà thấy nóng ruột, muốn về chòi để cùng con dâu thu xếp đồ đạc.
Ngày mai xe đến sớm, sợ lu bu quên cái này, cái nọ. Bà sợ con dâu bận lòng nên
dù mệt nhọc, đau buốt đôi chân, bà vẫn cố một mình lê bước...
- Tội cho
con… - Bà lẩm bẩm - Nợ nần còn nhiều chỗ chưa thanh toán, không biết nó lo liệu
sao đây?
Bà Tâm dừng
bước trước chòi. Bà thấy lạ khi nhìn tấm liếp sậy được kéo lên, che kỹ ngay cửa
ra vào. Thường nhà vắng người mới chắn cửa như vậy. Bà nhìn quanh, không thấy
bóng dáng con dâu. Vén tấm liếp đi vào chòi, bà Tâm nghe tiếng động rất lạ phát
ra từ trong chỗ Thanh ngủ. Bà bàng hoàng, chết điếng, không thể tin ở tai mình…
Những âm thanh của giường chiếu, tiếng kêu kèn kẹt của tấm vạt tre hòa cùng tiếng
thở hổn hển và âm thanh rên rỉ man rợ bản năng của người đàn ông… Tất cả như những
nhát búa chém không chút xót thương vào cái đầu khốn khổ của bà Tâm! Những âm
thanh ấy có khi lẫn vào và mất hút trong tiếng sóng gào thép ngoài bãi, có khi
vang lồng lộng giữa bốn bề thinh lặng! Trong tiếng gió ào ào lướt qua vách lá,
hình như bà Tâm nghe cả tiếng nghiến răng chịu đựng của con dâu: âm thanh rất
khẽ mà tan nát trái tim bà! Bà Tâm khuỵu xuống. Mấy lần bà cố bám lấy chiếc cột
tre đứng dậy rồi lại khuỵu xuống một cách đớn đau, tuyệt vọng... Thanh ơi! Thanh ơi! Sao lại làm chuyện này, con
ơi! Tiếng bà nghẹn trong cổ. Bà muốn thét gào, muốn vùng đứng lên, muốn lê
tấm thân bệnh hoạn ra khỏi căn chòi để thoát khỏi những âm thanh ấy... Và cuối
cùng, không biết bằng cách nào, bà cũng ra khỏi căn chòi lá... Bà gục đầu trên
hai gối, tóc tai rũ rượi, khóc tức tưởi như chưa từng được khóc lần nào trong đời!
Bà không nhìn lên để thấy một lúc sau, từ căn chòi lá của mẹ con bà, người đàn
ông bụng phệ với cái đầu hói đi ra, bước lững thững với vẻ mãn nguyện về phía
chiếc xe tải nhỏ đậu dưới bãi cát…
Bà Tâm không
thể tin được những câu nói bà vừa nghe lúc nãy. Em cho anh xin số điện thoại để anh về quê tìm em. Dẫu một lần thì cũng
tình, cũng nghĩa! - Không! Anh đừng có mơ! Đây là lần cuối. Không bao giờ có
chuyện này… nếu… má tui không bịnh!…
*
Chuyến xe sớm
lướt êm trên quốc lộ. Những hàng cây chạy nhanh qua cửa kính, lùi về phía sau.
Biển đã ở rất xa, rất xa - xa như một dĩ vãng bão táp, một cơn ác mộng cần quên
đi, cần phải bỏ lại. Hai bên đường cây cối đã hồi sinh sau những cơn mưa đầu
mùa: lá mướt xanh, hoa khoe sắc rực rỡ...
Thanh ngồi
bên mẹ, đôi khi thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa kính, cố giấu tiếng thở dài. Chị nhẹ
nhàng ngã đầu lên vai mẹ, mắt nhắm nghiền, nói như trong giấc chiêm bao:
-
Mình đừng bao giờ trở lại nơi đó nữa, nghen má!
Bà Tâm đoán
chắc Thanh không nhìn thấy đôi dép của bà đánh rơi trước cửa chòi hôm qua. Bà dỗ
dành con dâu:
-
Không bao giờ. Có chết đói má con mình cũng không bao giờ tới đó!
Thanh nhắm mắt
thiếp đi trong giấc ngủ bình yên. Bà Tâm muốn gọi con dậy, chỉ cho con thấy những
cây bằng lăng đã nở đầy hoa tím trong nắng trưa. Ngộ thiệt! Cái giống cây gì mà kỳ cục, mới nghe hơi nước xa tít mù là
đã… lật đật trổ bông!
Bà muốn nói với
Thanh ý nghĩ đó, nhưng nhìn con ngủ, lại thôi…
N.L.B
THANH HÀ
HỒN SEN
Nhiều người xem quê hương là miền đất quá đỗi thân thương,
không thể nào quên, không muốn rời xa. Nhưng với ông Năm thì không như vậy. Mặc
dù ông là một nông dân Nam bộ chính hiệu, suốt đời gắn bó với làng quê, dòng
sông, ruộng vườn nhưng ông không cảm thấy sâu nặng với những cái đã làm nên gần
như cả cuộc đời ông đó. Tất nhiên là cái gì cũng có lý do của nó. Những ký ức
khổ cực, gian nan cùng với những đối xử bạc bẽo, đen đủi đeo mang đến tận lúc
mà ông cảm thấy không còn đủ sức để chịu đựng nữa chỉ là nền tảng của nỗi chán
chường. Những cuộc ly hương của đám thanh niên nông thôn để lại sự quạnh quẽ
của một làng quê chỉ còn người già, trẻ nhỏ cũng chỉ là gia vị thêm vào. Cái
món chính nhất, thật sự nhất là vì con trai ông. Đối với ông, Hoàng Nam, không
chỉ đơn giản là niềm tự hào về một đứa con tài năng, hiếu thảo mà còn là cả một
ước mơ hạnh phúc tuổi già của mình. Điều cốt lõi nhất là ông muốn đi theo con
trai mình, ở cùng cháu nội mình dù là ở bất cứ nơi đâu. Mà cái nơi đâu đó không
thể là nơi đây, nơi mà con trai ông không thể nào phát huy được hết sự giỏi
giang của nó.
*
Cái ngày ông chờ đợi cuối cùng cũng đến. Khi được thông báo
sẽ được xuất viện trong sáng nay, ông
không khỏi vui mừng khi cơn bạo bệnh kết cuộc cũng không ngăn cản được ý nguyện
ông muốn từ biệt xứ sở này. Rồi ông sẽ sống cuộc sống vui tươi, an nhàn bên
cạnh con cháu ở một chân trời hạnh phúc xa xôi. Rồi ông sẽ bứt thoát khỏi những
nhọc nhằn, đớn mọn như thoát khỏi những cánh tay từ bùn đất níu kéo, quấn víu
đời ông. Rồi đôi chân ông sẽ được các phương tiện hiện đại của đất nước văn
minh, tiên tiến nhanh chóng trả lại sức mạnh vốn có của một nông dân chân lấm,
tay bùn. Nhưng… sao người đến đón ông lại không phải là con trai ông mà lại là
một cô gái cũng trạc cỡ tuổi nó. Cô ta vui tươi nhìn ông qua một nụ cười rạng
nắng sớm ban mai:
- Dạ thưa chú! Hoàng Nam có chuyện bận nên nhờ cháu đến đây
đón chú…
- Nhưng con là ai?
- Dạ con là Bích Ngọc, bạn học của Hoàng Nam… Chú không nhớ
con sao?
- À, nhớ rồi… Lâu rồi không gặp… Giờ con lớn quá… Nam đâu
rồi con?
- Dạ, Nam trở về nước rồi… Có chuyện gấp thưa chú…
- Vậy giờ mình đi đâu?… Nhà, đất đã giao nó bán hết rồi…
- Dạ, Nam đã sắp xếp mọi chuyện rồi, xin chú cứ yên tâm!
*
Mặt trời ló dạng phía hàng cây xa xa. Những tia nắng đầu
tiên long lanh trên mặt nước mênh mông của cánh đồng mùa nước nổi. Phía mũi
xuồng, một phụ nữ đang đứng hái lấy những bông điên điển màu vàng. Cô ta quay
lại, nhoẻn nụ cười tươi tắn như tia nắng đầu ngày ấm áp. Giữa xuồng, một cậu bé
cũng đang nhìn lên vui vẻ. Vậy người đang cầm lái là ai? Ô, chính là mình chứ
ai - Ông Năm nghĩ vậy - Đúng rồi, thằng bé hôm nay nghỉ học, nên xin theo cha
mẹ mưu sinh trong mùa lũ đây mà. Vợ ông ngồi xuống cầm lấy dầm bơi đi. Ông Năm
cũng ra sức vẫy mạnh mái dầm. Chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt nước làm bầy chim
trong hàng tràm giật mình tung cánh bay lên trời. Vượt qua biển nước bao la,
chiếc xuồng lạc giữa một đồng sen bát ngát. Cả nhà ông hái lấy thật nhiều bông
sen, gương sen và cả lá sen nữa. Những món này đều có thể bán được để giúp cả
nhà sinh sống qua ngày và lo cho đứa con trai có thể có một tương lai tươi sáng
hơn.
Ơ, nhưng sao tất cả đâu mất hết rồi… Không có xuồng… không
có cả vợ con… Chỉ còn những bông sen trôi lang thang trên đồng nước vô tận. Ông
Năm cất tiếng gọi vợ con nhưng chỉ nghe vọng lại tiếng của chính mình. Ông sợ
quá, cố vẫy vùng thì nhận ra là mình đang rơi vào một hố xoáy nước to lớn. Dòng
nước ngày càng mạnh, cuốn ông về phía tâm của nó theo một chiều xoay tàn nhẫn.
Đúng lúc ông biết là mình bất lực, đành chấp nhận xuôi tay thì cũng là lúc ông
giật mình thức giấc.
Ờ mà… giấc mơ tương tự như thế này lặp đi lặp lại rất nhiều
lần trong cuộc đời ông. Lần trước, khi ông không thức giấc được nữa là chính
lúc ông bị tai biến nặng, phải vào bệnh viện cấp cứu. Còn bây giờ, thì ông đang
ở đâu? Ông chồm dậy trên giường, cố để
nhớ lại chính xác nơi mà mình vừa chuyển đến.
*
Nơi mà con trai ông sắp xếp không phải là phòng chờ của một
sân bay quốc tế nhộn nhịp hành khách tha phương mà ông đã nhiều lần hình dung
ra. Nơi mà con trai ông sắp xếp cũng không phải là một căn phòng tiện nghi
trong một khách sạn sang trọng gần chốn phi trường. Nơi mà con trai ông sắp xếp
lại chính là một… bệnh viện phục hồi chức năng trong ngay cái tỉnh lẻ này… Và
người mà con trai ông gửi gắm chính là một nữ bác sĩ điều trị nơi đó… Mà ông
cũng biết về đâu nữa… Chính ông đã giao toàn bộ giấy tờ đất đai, nhà cửa cho
con trai ông để giải quyết rốt ráo trước khi xuất ngoại… Chính ông đã nói với
nó quyết tâm không quay trở lại cuộc đời đơn độc không con, không cháu ở quê
nhà…
Bích Ngọc bước vào, vẫn nụ cười ban mai tươi tắn:
- Chú ơi… Đến giờ luyện tập rồi chú… Chú phải kiên trì thì
mới mau đi lại được chớ chú…
- Ờ… chú biết rồi… Thằng con chú nó nghĩ gì không biết… Tại
sao không đưa chú đi ngay mà bỏ chú bơ vơ lại đây như vậy?
*
Xuồng chở đầy bông sen. Hương sen thơm ngào ngạt khiến ông
Năm cảm thấy rất sảng khoái. Còn cảnh tượng nào êm ả hơn khi nhìn những cánh
sen hồng đang lấp lánh ánh nắng rực vàng. Con trai ông đang ngồi trong lòng ông
để tập bơi xuồng. Ông nắm hai tay thằng bé, móc từng nhịp dầm khoan thai, điệu
nghệ. Chiếc xuồng lướt êm ru soi bóng xuống mặt nước.
- Nhanh lên anh! Phải vào hàng tràm trước khi cơn giông tới!
Nghe tiếng vợ, ông Năm giật mình nhìn lên. Đằng cuối chân
trời, mây đen đang ùn ùn kéo tới rất nhanh. Vợ ông nói đúng, nếu còn chơi vơi
giữa đồng nước như thế này thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Vậy là cuộc đua sống chết
giữa gia đình ông và cơn mưa giông mùa lũ bắt đầu. Ông dành lấy mái dầm từ tay
thằng bé, bơi lấy bơi để. Phía mũi xuồng, vợ ông cũng quyết liệt không kém…
Lần này, ông giật mình sớm trước lúc chống chọi với hố xoáy
nước, chứng tỏ sức khỏe ông đã khá hơn lên. Cũng phải vậy thôi, vì hơn tháng
qua, ông đã cố gắng tập luyện theo lời khuyên ân cần của cô bác sĩ dễ thương
kia mà.
*
Hình như, Hoàng Nam có chuyện gì với vợ con nó cần phải giải
quyết. Nó điện về nói khi nào ổn sẽ về gặp ông ngay. Vợ Hoàng Nam là người da
trắng lớn hơn nó ba tuổi. Thật ra, ông cũng chưa từng gặp mặt con dâu và cháu
nội bao giờ. Lúc cưới vợ, Nam nói công việc nhiều quá, đường xá lại xa xôi nên
không rước ông qua bên Úc dự đám cưới được. Tất nhiên là ông buồn lắm, nhưng
thương con nên cũng đành tự an ủi: Biết
sao được, hoàn cảnh mà! Ông chỉ dự đám cưới con trai mình qua những hình
ảnh, đoạn phim nó gửi về trong cái di động mới toanh gửi kèm. Để có thể xem
được những hình ảnh quý giá đó, ông phải mất hai tháng nhờ mấy đứa trẻ chỉ dạy
để giúp một con người cổ lổ như ông dấn thân vào thế giới hiện đại, văn minh
này. Rồi cháu nội ra đời, ông cũng thấy qua clip. Đầy tháng, thôi nôi, sinh
nhật, đi học… ông cũng thấy qua clip. Ông xem đi xem lại từng cái clip, đến nỗi
thuộc lòng từng động tác, cử chỉ, từng tiếng nói, giọng cười… Nửa đêm giật mình,
ông xem clip… Ăn cơm xong, ông xem clip… Trước lúc bị tai biến, ông cũng đang
xem clip… Trong những cái clip thần kỳ đó, ông hình dung ra cuộc sống tuyệt vời
của con trai mình với vợ con nó… Ông thèm chui vào cái clip ngay lập tức để
được sống trong cái thế giới ước mơ đó… Nhưng thực tế là ông phải cố sức luyện
tập theo chỉ dẫn của cô bác sĩ đáng yêu có nụ cười tỏa nắng này, để nhanh chóng
cất cánh thoát khỏi nơi đây.
*
Gió càng ngày càng mạnh hơn. Từng lớp mây đen mỏng, mang
theo những hạt mưa bụi đang đến trước. Mặt nước bắt đầu xao động bởi những con
sóng nhỏ. Hàng tràm thì hãy vẫn còn xa. Theo tính toán của ông Năm, vẫn có thể
về nhà kịp trước khi cơn giông tố thật sự mạnh lên, nhưng phải cố gắng bơi
nhanh hơn nữa.
Vừa lúc đó, bất chợt ông thấy chiếc xuồng mình lướt nhanh
hơn. Ông ngạc nhiên nhìn vào giữa xuồng thì thấy con trai ông đang dùng một tấm
ván hẹp vốn dùng lót xuồng bơi tiếp cha mẹ. Ông mỉm cười khi thấy con mình vừa
thông minh vừa hiếu thảo như vậy. Đúng rồi, nó luôn là niềm tự hào, niềm hạnh
phúc lớn lao nhất của vợ chồng ông kia mà. Ôi, nếu cuộc đời cũng như giấc mơ
luôn dừng lại ở đây thì tốt biết chừng nào.
*
- Hôm nay, chú tập tốt quá… Nếu như cái đà này không lâu,
chú sẽ đi lại bình thường…
- Vầy là cũng lâu quá rồi chứ… Chú cứ tưởng không bị nặng
đến như vầy…
- Mà chú đang xem gì đó?
- Nè, con coi đi… cháu nội của chú đó…
- Vậy à… Ủa, mà
nó…
- Ừ tại nó
giống mẹ, lai Tây mà!… Đó nó nói đó!…
Đứa bé trong
clip vừa cười vừa nói với người xem clip.
- Mà nó nói gì
vậy chú?
- Nó nói: Ông nội ơi… ông nội có nhớ con không? Con
nhớ ông nội lắm!
- Nó nói bằng
tiếng gì?… Mà
sao chú nghe hay vậy?…
- Hà… hà… Nó nói tiếng Việt đó, tại không bỏ dấu… Cũng cả
tháng mới hiểu được đó chứ… Mà con chưa có gia đình à?
- Dạ chưa…
- Nghe nói con du học ở Mỹ rồi làm việc ở bển… Sao giờ lại
về đây?…
- Dạ, tại con thích về quê hơn… Ta về ta tắm ao ta vẫn tốt mà
chú…
- Ở xứ mình có
gì đâu mà tốt con ơi… Giỏi như con mà về đây thì uổng quá!
- Nhưng về đây,
con mới gặp được bà con mình… Và nhất là gặp được chú nè!…
- Rồi chừng nào
lấy chồng?…
- Dạ, phải có
ai chịu lấy con thì con mới lấy được chớ chú…
*
Cơn giông không
chịu thua cả nhà ông. Nó bắt kịp chiếc xuồng lúc cách hàng tràm không còn xa
lắm. Mưa trở nên nặng hạt. Gió gào thét. Sóng cuồn cuộn. Và ghê gớm hơn nữa là
một cơn lốc xoáy đang lao đến. Ông Năm thấy rõ ràng nhiều vật đang bị nó cuốn
vào những cánh tay tử thần của nó. Có cả những cành cây, những thân cây và có
cả những con chim đang cố bay ra nhưng không đủ sức vượt thoát.
Khi đã cảm nhận
được sức mạnh của cơn lốc xoáy lúc nó đến gần nhất, ông Năm hét lớn lên:
- Bơi lùi lại
nhanh lên!
Cả nhà hiểu ý
ông ra sức đẩy các mái dầm về trước để chiếc xuồng mau chóng lùi về sau. Nhờ
vậy, cơn lốc xoáy bị lỡ bộ, không kịp tác oai tác oái bằng cách bốc cả nhà ông
ném lên không trung cho hả hê cái lòng dạ tàn ác của nó. Ông Năm nhìn theo cơn
lốc xoáy, cất tiếng cười ha hả, nửa như muốn chọc quê nó nửa vì mừng cho cả nhà
vừa thoát một cái chết ghê rợn. Giọng cười của ông vang lên trong đêm tối ngay
cả khi ông đã thức giấc và nhận ra vẫn là giấc mơ quen thuộc.
*
Ông Năm chống
đôi nạng đến tìm bác sĩ Bích Ngọc. Thấy ông, cô nhanh chóng bước ra:
- Kìa chú! Chú
tìm con à?
- Đúng rồi, con
giúp dùm chú chuyện này chút nhe con!
- Dạ, chuyện gì
vậy chú?
Ông Năm lấy cái
điện thoại ra. Số là sáng nay ông nhận được một cái clip từ bển gửi về. Sẽ là
bình thường nếu đó là của con trai hay cháu nội ông. Đàng này nó lại đến từ con
dâu ông. Hình như cô ta có điều gì bức xúc lắm nên vừa khóc vừa nói trong clip.
Khổ nỗi lại nói bằng tiếng Anh nên ông có hiểu gì đâu.
Bích Ngọc, ngồi
xuống cạnh ông bên băng đá ngoài khu vườn bệnh viện. Cô vừa xem vừa dịch:
- Thưa cha…
Trước hết con xin lỗi cha vì con không thể đáp ứng được điều cha luôn mong muốn
là được sống cùng vợ chồng con…
- Nó … nó… nói
như vậy thật à?
- Thật chú à…
Cổ nói rất rõ là như vậy…
- Thôi con dịch tiếp đi!
- Cha thông cảm… Vì con trai con nên con không thể làm điều
đó…
- Ủa? Nó nói
vậy là sao?
- Cha cũng
biết… Con luôn cố làm những điều tốt đẹp nhất cho con trai của mình… Mà con
cũng xin nói thật với cha là… nó là con riêng của con… Nó không phải là con của
anh Nam… Do đó, con không thể làm điều đó… Mong ba hãy giúp con khuyên anh Nam
đừng cố thuyết phục con nữa…
Ông Năm lặng
người khi nghe tới những câu cuối cùng. Bao nhiêu mơ ước của ông trong phút
giây đã sụp đổ hoàn toàn. Và điều đau đớn nhất là bé Peter, đứa cháu nội yêu
thương nhất của ông, dù ông chưa được gặp nó trong đời thực bao giờ lại không
mang dòng máu của ông. Nghĩ tới đó ông thấy mặt mũi mình tối sầm lại và không
biết gì nữa.
*
Sau khi cơn lốc
xoáy đi qua, sóng gió cũng yếu đi phần nào. Tuy nhiên, mưa lại trở nên nặng hạt
hơn. Những hạt mưa được sức gió phóng đi quất vào da mặt ông Năm như những mũi
tên nhỏ, gây buốt rát đau đớn. Trên nền trời tối sầm hẳn lại, xuất hiện những
ánh sáng chớp lóa của những tia sét đang càng lúc càng gần hơn. Nguy cơ bị sét
đánh trúng giữa đồng nước là điều rất có thể trong lúc này. Bằng chứng là một
tia sét vừa đánh vào hàng tràm khiến nó bốc cháy ngay trong cơn mưa. Ánh lửa
khét lẹt đó giúp ông Năm và vợ con định hướng rõ ràng hơn để nhanh chóng bơi
vào bờ chỉ còn khoảng hơn hai mươi thước.
*
Ông Năm giật
mình dậy trên giường vì có tiếng chuông điện thoại. Vậy là sáng nay ông đã bỏ
buổi tập vì sự cố hôm qua. Đó là điện thoại của Hoàng Nam:
- Ba nghe đây
con!
- Thưa ba! Ba khỏe không ba?
- Ừ, ba khỏe lắm… Ba sắp đi lại bình thường rồi… Con yên tâm đi…
- Ba à… Ba yên
tâm đi… Cha con mình sẽ sắp sống chung với nhau nên ba đừng lo lắng gì cả?
- Ừ… Nhưng sao vợ con?…
- Con… con… con và vợ con vừa làm thủ tục ly hôn xong… Nên
vợ con sẽ không còn có thể cản trở gì nữa đâu ba…
- Nhưng sao lại như vậy hả con?
- Chuyện dài
lắm ba à… Thật ra… con và vợ con chỉ là một cuộc hôn nhân hợp đồng mà thôi… Vợ
con cần một người cha cho con trai mình, một người chồng cho trang trại của gia
đình cô ấy… Còn con cần một cơ hội để được định cư… Nhưng bây giờ thì đã đến
lúc phải chấm dứt rồi thưa ba… Con cũng sắp về nước rồi… Khi nào gặp ba, con sẽ
nói kỹ hơn… Ba mau khỏe lại để về sống với con nhe ba…
Ông Năm vẫn còn
tần ngần sau cú điện thoại đó thì Bích Ngọc bước vào:
- Điện thoại
của ai vậy chú?
- Điện thoại của thằng Nam… Nó nói sắp rước chú qua bển với
nó rồi…
- Vậy hả chú?
Trong nụ cười ban mai của người nữ bác sĩ sáng nay, ông Năm
cảm thấy hình như nó thiếu tươi hơn mọi bữa.
*
Khi chiếc xuồng vào gần đến hàng tràm thì bổng nhiên nó lại
chuyển động theo chiều ngược lại mặc dù mọi người đang cố gắng bơi về phía
trước. Ông Năm giật mình khi hiểu ra nguyên nhân. Một hố nước xoáy lớn đã bất
ngờ xuất hiện ngay trên đường di chuyển của chiếc xuồng. Sao lại như vậy? À,
thì ra đây chính là dòng kênh cặp hàng tràm mà mặt nước mùa lũ đã xóa nhòa ranh
giới. Có lẽ đáy dòng kênh vừa bị sụp một lỗ to nên tạo ra dòng xoáy nước sát
nhân này. Ông Năm nhận ra chiếc xuồng đang còn nằm ngoài rìa dòng xoáy nên nhân
cơ hội nó xoay chiếc xuồng trọn vòng đến sát hàng tràm, phải ra sức bơi thoát ra
khỏi nó thì mới cơ may sống sót.
*
Hôm nay, ông Năm tham gia chuyến tham quan do bệnh viện tổ
chức. Nơi đến sẽ là một khu nghĩ dưỡng kết hợp trị liệu mà nghe nói cũng không
xa bệnh viện lắm. Người hướng dẫn chuyến đi chính là Bích Ngọc. Xe khởi hành vào
lúc bốn giờ sáng để đảm bảo có thể đón mặt trời mọc và ăn sáng tại chỗ tham
quan. Theo đúng liệu trình, Bích Ngọc yêu cầu mọi người dùng thiết bị bịt mắt,
đeo tai nghe với âm nhạc thích hợp cho việc thiền định suốt quá trình xe chạy.
Cái món nhạc tịnh tâm quả là hiệu nghiệm, vì chỉ sau dăm phút, ông Năm đã ngủ
mất tiêu.
*
Khi vòng xoáy thứ hai đưa chiếc xuồng gần đến hàng tràm.
Theo hiệu lệnh của ông Năm, vợ và con ra sức bơi xuồng thoát ra khỏi hố xoáy.
Mũi xuồng đã có lúc nhớm ra khỏi sức kéo của dòng nước nhưng rồi lại không thể
vượt qua. Sau cố gắng bất thành đó, dòng nước đã trở nên nhanh hơn, chiếc xuồng
đã đi vào tâm hơn và ông Năm biết tính mạng của cả nhà cũng đã trở nên mỏng
manh hơn…
*
Ông Năm giật mình khi được gọi xuống xe. Khu du lịch sinh thái
và nghỉ dưỡng Hồn Sen này không chỉ có cái tên thật là hay mà quy mô của nó đã
khiến mọi người đều phải ngạc nhiên. Theo lời của cô hướng dẫn viên dễ mến thì
nó có nhiều phân khu trồng nhiều loại bông sen sưu tập từ nhiều nơi trên thế
giới. Những đầm sen đó còn được tô điểm bằng những đài phun nước, những bức
tượng nghệ thuật. Trong khu có các nhà thủy tạ cho khách đi píc - níc, có lối
đi bộ xung quanh và ghế nghỉ đặt dọc lối đi, có khu vui chơi dành cho trẻ em,
các ki - ốt giải khát và nhà hàng ăn uống.
Sau màn chào đón, giới thiệu tổng quan, ông Năm được dẫn đi
vào phía rừng tràm, nơi hiện ra các ngôi nhà gỗ xinh xắn và đã thấp thoáng bóng
dáng người nước ngoài đang ở. Ông Năm cũng được nhận một căn phòng với nội thất
bên trong tiện nghi chứ không như vẽ bề ngoài dân dã của nó. Nhận phòng xong,
ông lại được gọi tiếp tục chuyến tham quan.
Sau tiết mục tắm hơi, xoa bóp, bấm huyệt, mọi người được tập
hợp đến một căn phòng yên tĩnh để tập luyện các bài tập dưỡng sinh nhẹ nhàng.
Và sau đó là bài tập thiền định an dưỡng tinh thần. Ông Năm lại chìm vào giấc
ngủ ngắn ngay trong không gian yên tĩnh đó.
*
Ông Năm lập tức phóng ra khỏi chiếc xuồng khi vòng xoáy thứ
ba đưa ông vào gần bờ. Ông dùng hết sức bơi vào và vừa kịp bám vào rễ tràm ngay
lúc vừa đuối sức. Ngoái lại nhìn thì vợ con vẫn còn ở trên xuồng theo vòng xoáy
quay trở ra. Vậy là họ đã không thể phóng ra. Ông hét lên:
- Lần sau thì cố hết
sức nhảy ra nhe… Chỉ cần ráng một chút là nắm được tay tôi…
*
Nhìn thực đơn của buổi tiệc mang tên Hồn sen, ông Năm không khỏi ngạc nhiên. Không bất ngờ sao được khi
một lão nông cả đời gắn bó với nghề trồng sen như ông mà vẫn không thể hình
dung hết những công dụng vô cùng phong phú của loài hoa gần bùn vẫn không hôi
tanh này. Ông biết mình phải thưởng thức một cách từ tốn thì mới có thể hưởng
thụ được hết hương vị của các món ăn có trong buổi tiệc. Kìa là các món nằm bàn
gồm bim bim củ sen thơm vàng giòn rụm
hay hạt sen xào bơ sừn sựt ngầy ngậy,
dùng cùng với sữa sen, không quá béo, chỉ ngọt thanh với mùi thơm nhẹ. Quả là
lời mời gọi ân cần cho thực khách bước vào thế giới của ẩm thực và hoa sen.
Sau khi gắp vài đũa món gỏi
chân gà trộn ngó sen ăn kèm với bánh phồng
tôm, ông Năm chậm rãi tận hưởng chén súp
tôm, cua nấu với bông sen mang hương vị rất lạ của những cánh hoa sen đã
hòa vào nước dùng mà ông chưa từng được ăn bao giờ. Ông Năm nhắm mắt lại để
hình dung màu sắc của những cánh sen đang phất phơ trong gió rồi cất cánh bay
lên lan tỏa khắp không trung. Nhưng rồi ông lại mở mắt ra ngay vì sợ lại chạm
vào một giấc mơ không đẹp luôn đeo bám lấy ông.
Giờ là thời điểm của những món chính. Món cá lóc nướng trui cuốn lá sen non chấm
mắm me không lạ nhưng vẫn luôn hấp dẫn, lại phối hợp cùng món sườn non nấu hạt sen và đậu Hà Lan dùng
với xôi lá sen thì quả thật ấn tượng
vô cùng khó phai. Ông Năm bất chợt không khỏi suy nghĩ về đời sen. Thật sự ông
không thích câu ca dao gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Không! Theo ông, bông
sen gần gũi lắm, thân thương lắm nên không thể có cái suy nghĩ phân biệt như
vậy. Chính bông sen đã tự mình hút lấy những tinh túy từ bùn sâu nước đọng mà
tạo ra những sắc màu, những hương thơm cho cuộc đời này. Và ngay cả những hương
vị mà ông đang thưởng thức đây cũng mang nguồn gốc từ những thấp hèn, đau khổ
của mảnh đất, tình người nơi đây.
Món lẩu sen cá diêu
hồng thật sự là công phu vì trong nước lẩu có cả củ sen, hạt sen, nhụy sen,
cánh sen và gạo sen, tức là những hạt trắng hình hạt gạo, ở đầu nhị đực của hoa
sen mà người ta đã tỉ mẫn nhặt ra. Dọn cùng với nó là một chiếc lá sen gói cơm gạo huyết rồng trộn hạt sen. Đến lúc
này thì mọi người chắc cũng sẽ như ông, nhận ra đây không chỉ đơn giản là ăn
uống nữa rồi mà có cái gì đó sâu xa hơn, cao siêu hơn. Ông Năm không được học
đủ nhiều để gọi ra tên tuổi của cái điều mà ông đang cảm nhận được. Mà cũng
không sao, vì ông đang hình dung nó rất rõ ràng.
Ông Năm không khỏi cười thầm khi hiểu rằng, nhiều người đang
nuối tiếc khi không còn bụng để dùng món tráng miệng vô cùng độc đáo bởi người
nấu đã tận tâm nhét từng hạt sen nấu chín, thấm ngọt vào từng trái nhãn lột sạch
vỏ, tách hạt, rồi cho vào nước chè sen nấu với đường phèn, táo đỏ, kỷ tử, vừa
thanh đạm vừa ngọt mát, quả xứng danh với một món ăn cung đình ngày xưa. Khi ăn
hơn nửa chén chè, ông Năm nghe thấm thía cái gọi là tâm huyết của người nào đó,
không chỉ tạo ra buổi tiệc này để chiêu đãi cả đoàn của ông mà còn tạo ra cả
khu sinh thái, nghĩ dưỡng này nữa. Mà rốt cuộc nơi này là đâu vậy, hình như
cũng không xa lắm mà sao ông chưa thể nhận ra.
Vừa lúc đó, Bích Ngọc bước lên sân khấu nhỏ phía đầu nhà
hàng và ân cần thông báo:
- Kính thưa các cô chú, có một tin bất ngờ là Giám đốc Khu
du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Hồn Sen này vừa từ nước ngoài trở về và ngay
lập tức đến đây để chào hỏi mọi người. Xin mọi người hoan nghinh ạ!
Ông Năm buông chén chè để hòa theo tràng pháo tay, nhưng ông
không nhìn lên vì vốn ông đang quay lưng về phía phát ra một giọng nói mà càng
nghe ông càng thấy quen. Khi nghe đến câu nói: và đây cũng chính là quê hương của tôi thì ông buông chén chè xuống
lần nữa và quay lại nhìn. Người giám đốc trẻ đang bước về phía ông. Lẽ nào lại
là… Không thể lầm lẫn được… Nhưng tại sao lại như vậy?
- Thưa ba! Con xin lỗi… Đến hôm nay con mới về được…
- Nhưng sao con lại ở đây?
- Dạ, con đã chuẩn bị cho chuyện này nhiều năm rồi ba… Giờ
thì cha con mình sẽ sống chung như ngày xưa thôi ba…
- Ở đâu?
- Ba không thích chỗ này hay sao?
*
Hổm nay, ông Năm đã quen với việc dùng trà sen vào sáng sớm
ngay tại lầu sen này. Nơi đây, ông có thể nhìn thấy gần như toàn cảnh của khu
các đầm sen với các loài sen mà ông đã hết lòng ghi nhớ. Kìa là đầm sen hồng
miền Nam vốn có quá nhiều kỷ niệm với ông. Kia là loài hoa sen trắng đại đóa có
thân rễ lớn thường được người da đỏ châu Mỹ sử dụng làm nguồn thức ăn. Bên cạnh
là đầm sen hồng cung đình Huế dễ thương, nhỏ nhắn với đài hoa như những cánh
hạc nhỏ tìm được đất lành để đáp xuống. Đó là màu hồng và màu trắng của loài
sen Nhật Bản rất quý hiếm, khó nhân giống nhưng lại dễ chăm sóc. Xa hơn là loài
sen Bách Diệp hay còn gọi là sen Quan Âm, xuất thân từ đất nước chùa vàng Thái
Lan có nhiều cánh nhỏ xinh xắn bên trong những cánh hoa màu trắng hay hồng.
Loài sen có hai đóa màu trắng nở cùng một cuống, luôn tạo cảm giác thanh tao,
thuần khiết, quý hiếm vì được dùng để tiến vua phía bên trái kia có tên là Tịnh
Đế Liên. Loài này có cả loại màu hồng và còn có một tên nữa là sen phu thê. Gần hơn một đầm là loại hoa
sen đặc biệt có màu trắng viền hồng, cánh kép, thỉnh thoảng còn có một số bông
đột biến cho ra cả hai màu, trắng và hồng trên cùng một bông sen. Ngoài những
loài sen có màu khác như sen đỏ, sen xanh, sen tím, sen vàng thì kỳ lạ hơn tất
cả là cái đầm có loài sen vua, vốn là một giống sen từ Nam Mỹ với những chiếc
lá sen khổng lồ có đường kính đến gần hai mét, dày và có nhiều gai, mép lá cao
tạo thành hình cái nia, màu xanh nhạt mà một người lớn có thể đứng được trên
đó.
Trà sen ở đây được ướp rất kỳ công. Từ xế chiều hôm trước,
người ta bơi xuồng ra, bỏ những nhúm trà ngon vào các nụ sen, để rồi đến tờ mờ
sáng hôm sau lấy vào mà pha nên những ấm trà thấm đầy hương vị trời đất giao
hòa. Cũng có loại trà sen chế biến bằng cách, hái hoa sen Bách Diệp tươi, tách
gạo sen, sàng rồi ướp bảy lần cho đượm vị. Đối với những ai muốn mua về thì có
trà ướp trong bông sen sấy khô, trà tim sen, trà lá sen… Tuy nhiên, đối với ông
Năm, ngồi ở đây uống trà sen từ các nụ sen tươi thì quả là diễm phúc. Nhất là
còn được thưởng thức cùng mứt hạt sen, bánh sen… thì còn gì bằng.
Ờ mà, cái đầm sen hồng đàng xa kia có cái gì đó mà sao ông
cảm thấy quen thuộc đến như vậy. Phải rồi, cái hàng tràm cạnh dòng kênh kia làm
sao ông quên được. Đúng rồi, nó chính là phía trước mặt căn nhà của ông đó mà.
Nhận ra rồi… Thằng Nam đã giải thích về việc tạo nên khu này như thế nào. Nào
là kêu gọi người dân góp cổ phần bằng mặt bằng đất đai… Nào là sự hỗ trợ và đầu
tư từ tập đoàn bên Úc mà nó đang làm việc… Nào là hưởng chính sách ưu đãi từ
chính quyền địa phương tỉnh này… Nói tóm lại, thằng Nam đã chuẩn bị chu đáo và
bỏ rất nhiều công sức cho tâm nguyện trở về quê hương này của nó…
Ông nhìn ra cửa, thấy Bích Ngọc bước vào. Cô lại tỏa nắng
bằng nụ cười xinh tươi của mình:
- Chào chú!… Bửa nay chú khỏe hả chú?
- Chú khỏe… Hổm rày con không xuống đây chơi, bận lắm hả
con?
- Dạ, xong hết rồi chú ơi… Từ nay con sẽ xuống đây mỗi tuần
ba ngày để phụ trách phân khu nghỉ dưỡng, phục hồi chức năng ở đây đó chú!
- Vậy à, tốt
quá rồi… Từ đây chú cháu mình sẽ có dịp gặp nhau thường hơn.
Trong đầu ông
Năm chợt nghĩ ra một ý. Ờ, mà biết đâu được… Con bé vẫn chưa có chồng mà thằng
Nam cũng đã ly hôn rồi. Giờ này lại làm việc chung. Ờ, mà biết đâu được…
Vừa lúc đó có
một người phụ nữ dắt một bé trai bước vào. Bích Ngọc nói với ông Năm:
- Chú xem, có
ai tìm chú đây?
- Ai vậy?
Vừa hỏi xong,
ông Năm cũng vừa nhận ra người phụ nữ da trắng trong bộ áo đầm màu hồng cánh
sen kia chính là con dâu… hay nói đúng hơn, đã từng là con dâu của ông. Còn đứa
bé kia… từng là… từng là cháu nội của ông. Ông ngập ngừng hỏi:
- Cô… cô tìm
tôi có chuyện gì vậy?
Người phụ nữ
sụp xuống bên ông, nước mắt lưng tròng, nói một tràng tiếng nước ngoài làm ông
không hiểu mô tê chi cả. Ông đưa mắt nhìn Bích Ngọc. Bích Ngọc tiến sát bên,
dịch cho ông nghe:
- Chị ấy nói…
chị ấy xin lỗi chú…
- Xin lỗi à? Chuyện
gì?
- Xin lỗi về
việc đã cố ngăn cản anh Nam không cho ảnh trở về đây sống cùng với chú…
- Ủa? Vậy sao?
- Nhưng giờ chị
ấy đã hiểu và đã hối hận. Chị muốn xin chú và anh Nam tha thứ vì thật sự thì
chỉ rất yêu anh Nam, mặc dù ban đầu chỉ là một cuộc hôn nhân vì hoàn cảnh…
- Con nói với cổ, chú thì dễ rồi. Nhưng phải tùy theo thằng Nam. Chú không quyết định được…
Trong lúc Bích Ngọc đang dịch câu nói đó của ông thì thằng
bé da trắng ôm chầm lấy ông. Nó nói tiếng Việt rất rõ:
- Ông nội ơi, con nhớ ông nội lắm! Mẹ nói, con về đây ở với
ông nội. Ông nội cho con ở đây nhe ông nội…
Ông Năm sửng sờ một hồi, rồi chợt nghe một thứ tình cảm gì
đó trào dâng trong lòng ông, lên nhịp thở của ông, trào ra khóe mắt ông, khiến
đôi tay ông ôm chầm lấy thằng bé và miệng lấp bấp:
- Con về ở với ông nội thiệt hả con?
*
Vòng xoáy này sẽ là vòng xoáy cuối cùng nếu ông muốn cứu vợ
con mình. Khi chiếc xuồng xoay đến ba phần tư vòng, ông Năm đã gào lên át cả
tiếng gió mưa đang rú rít ghê rợn:
- Nhảy ra đi! Nhắm
ngay tay tôi mà nhảy…
Một cành tràm bị gió thổi quất ngay mặt, khiến ông tối sầm
mặt mũi. Vừa mở mắt ra ông thấy một cái bóng bay đến. Ông vội quơ tay chộp lấy.
Định thần lại, ông nhận thấy thằng Nam đã bám được tay ông…
Ông Năm giật mình thức dậy, nhìn qua khung cửa sổ, trăng đã
vượt qua khỏi hàng tràm. Peter đang nằm ngủ ngon lành cạnh ông. Từ lúc về đây,
nó đều xin được ngủ với ông nội. Nhìn nó ngây thơ, ông thở dài ngẫm nghĩ, thì
nó là cháu nội mình hồi nào tới giờ mà. Mai cha nó đi dự hội chợ quảng bá du
lịch về thì mới biết quyết định cuối cùng là như thế nào. Tuy nhiên, hồi chiều
ông thấy nó vui lắm khi cha nó gọi điện về nói chuyện với nó. Tự nhiên ông lại
nhớ tới nụ cười tỏa nắng của Bích Ngọc và cảm thấy buồn buồn… Đời mà, khó có gì
có thể vẹn toàn được.
Ông nằm xuống và lần này ông không nằm mơ nữa mà chính ông
muốn nhớ lại cái giây phút khắc nghiệt nhất của đời mình. Khi đã giữ chặt được
thằng Nam, ông Năm nhìn ra chỗ vòng xoáy thì thấy vợ mình vì cố gắng tung đứa
bé đi xa nên đã mất đà rơi khỏi chiếc xuồng. Vợ ông cùng chiếc xuồng đang bị
cuốn vào giữa tâm hố xoáy. Trước khi mất hút dưới dòng nước vô tình, ông Năm
còn nghe tiếng vợ cố hét lên:
- Ráng nuôi con, mình
ơi!
Vậy đó, đối diện với nỗi đau xong, mình lại nghe lòng nhẹ đi.
Cũng cùng một chuyện xảy ra nhưng có người chán ghét, chê bỏ quê nhà, có người
lại càng yêu thương, tận tâm. Nhưng dẫu sao thì quê hương cũng là quê hương.
Cho dù ông có đi xa thật như ông luôn mong mỏi thì đến khi mãn số, ông vẫn muốn
mình được mang trở về cạnh cái hàng tràm kia để cùng sum họp với vợ kia mà!
Thằng Nam đã cho dựng một bức tượng nhỏ với hình ảnh một người phụ nữ Nam bộ
đang bơi một chiếc xuồng, chở đầy bông sen để tưởng niệm mẹ nó. Và nó cũng có
chừa chỗ để sau này cất giữ tro cốt của ông gần với người vợ tên Sen của mình.
Phải rồi, quê hương là để trở về và mỗi người cũng chỉ có một quê hương để trở
về mà thôi. Quê hương dẫu có là sình lầy níu kéo, quấn víu thì con người cũng
phải như những bông sen hút lấy những tinh túy từ bùn sâu nước đọng mà tạo ra
sắc hương cho cuộc sống.
T.H
TRÚC HẠ
ĐƯỜNG
VỀ XA XÔI
Là một phụ nữ
độc lập, xinh đẹp, giỏi giang, trưởng phòng maketing của một công ty liên doanh
quốc tế về thực phẩm, có một cơ ngơi nho nhỏ là một quán cafe được decor theo
phong cách châu Âu trên trục đường khá đắt đỏ ở Sài Gòn, Nga không mua nhà mà
thuê một căn phòng nhỏ gần công ty. Mọi người nói tiền của cô dùng vào đâu đều
toan tính rất kỹ, dân maketing có khác. Nhưng sự thật là cô chỉ muốn ở một căn
phòng vừa phải, đủ bày biện chút vật dùng cá nhân. Nga không muốn một chỗ ở rộng
thênh thang, dọn dẹp mệt nhọc, có nhiều khoảng trống, khiến cô càng thấy mình
đơn độc hơn. Không ai nhận ra Nga cũng là một cô nàng yếu đuối. Tất cả đều bị
Nga đánh lừa ở vẻ ngoài sành điệu và phớt đời.
Nga hầu như
không có bạn thân. Tất cả những gì cô có ở thành phố này là đồng nghiệp, đối
tác và những kẻ quen mặt. Ông sếp Tây chính là người đưa ra mức lương đáng ghen
tị để mời Nga về làm, khi chứng kiến khả năng thuyết phục khách hàng của cô
trong một buổi ra mắt sản phẩm. Ánh mắt sắc sảo cùng phong thái tự tin của Nga,
khí chất toát ra sự bản lĩnh, sẵn sàng khiêu chiến đó, không phải cô gái nào
cũng có được. Hơn nữa, dáng người dong dỏng cao nhưng không hề mỏng manh, yếu
đuối, cộng thêm lợi thế vốn tiếng Anh lưu loát đã khiến ông để ý đến cô ngay
khi chỉ vừa gặp lần đầu. Không ngoài dự đoán của ông, Nga chinh chiến trên các
đấu trường quốc tế không thua kém bất kỳ một CEO kỳ cựu nào. Cô đã mang về cho công ty không biết bao nhiêu hợp
đồng béo bở. Một lần nọ, sếp Tây đích thân mời Nga ăn tối để tỏ lòng ưu ái,
trong một nhà hàng cung cách hoàng gia nhưng vô cùng gần gũi. Tiếng dương cầm
dìu dặt, không gian tĩnh lặng được bao trùm bởi những nốt nhạc du dương. Nga đã
quên mất việc phải phòng vệ, cô nhắm mắt trôi theo tiếng nhạc. Lớp áo kiên cường
trôi tuột đâu mất, vô tình để lại hai hàng nước mắt nối nhau chạy dài... Ông sếp
Tây kinh ngạc khoảng vài giây, không nói gì. Từ đó, thỉnh thoảng ông trao về
phía Nga cái nhìn đầy chia sẻ. Và thỉnh thoảng, ông tạo điều kiện để cô gái
vàng của công ty có thể relax. Nhưng đối với Nga mà nói, phương pháp tốt nhất để
trị liệu cho chính mình là bận rộn. Vì nếu không, cô thường hay bị lạc trong những
giấc mơ.
*
-
Mày không phải con tao!
-
Đồ lạc dòng, ra khỏi nhà tao hết, con đàn bà hư, một đám con hoang...
Cút đi... cút hết cho tao!
-
Cha về rồi đây... Lụa ơi, Nga ơi, Thẩm ơi... Cha có mua siro dâu sữa nè! Nhanh
lên, sắp tan hết rồi nè mấy đứa...
-
Cha ơi, sau này con muốn làm bác sĩ.
-
Vậy thì con phải ráng học, làm bác sĩ khó lắm đó!
-
Vậy hả cha?
-
Cha ủng hộ con chứ?
-
Cha luôn cổ vũ cho con!
*
Kí ức giống như
một mảng tường được quệt lên đó nhiều màu sơn khác nhau. Có những màu sắc thật sự sinh động,
xanh mát như luống mạ non, vàng tươi như sợi rơm mùa gặt, tươi vui như những bước
nhảy chân sáo trẻ thơ. Nhưng kí ức cũng chứa cả những gam màu nhờn nhợn đầy vệt
tủi hờn. Hàng đêm, những khối màu ấy chen lấn trong giấc ngủ của Nga, đùn đẩy
thi nhau trở về. Chúng khiến Nga khó nhọc thở và khó nhọc trở mình. Lúc nào
cũng vậy, khi rời chiếc giường con, biết giấc mơ đêm qua đã đi xa lắm rồi,
nhưng Nga vẫn cần chút thời gian xóa đi dư âm của nó. Mới hôm qua, cô lại nằm
mơ. Trong giấc mơ, cô được cha mua cho ly siro màu dâu sữa. Lâng lâng trong cảm
giác vui sướng cho đến khi ánh sáng của ngày đâm xuyên qua khung cửa sổ, mùi
siro dâu vẫn như còn đượm trên vành môi. Hương vị đó làm sao Nga quên được. Một
thứ hương vị mộc mạc nhưng chưa bao giờ thôi ám ảnh với riêng Nga. Bàn làm việc
Nga kê gần cửa sổ. Có khi chỉ vì tiếng rao hàng rong mà Nga thẫn thờ cả buổi. Không
biết đó có phải là xe đá bào không. Thời buổi này ở Sài Gòn làm gì có xe đá bào
nữa. Dẫu vậy, Nga vẫn bước ra khỏi chỗ làm, đứng trước bậu cửa và hi vọng có thể
thấy một đứa bé nào đó bên một chiếc xe đá bào cũ kĩ nào đó. Nga muốn thấy lưng
áo đẫm mồ hôi, chiếc áo màu da bò thâm xì của người đàn ông bán hàng. Và cô
cũng muốn thấy lại hình ảnh một đứa nhỏ với đôi mắt lấp lánh, nhảy múa vui sướng
khi đón ly siro trên tay. Nhưng tìm đâu giữa thành phố xa hoa này những thứ ấy.
Thời buổi này, những đứa trẻ được cha mẹ chúng nâng niu, chăm chút, phục vụ đến
tận răng. Và những xe đá bào dường như đã thành những khối kim loại gỉ, bị bỏ lại
ở quá khứ. Do đó, kí ức tuổi thơ của cô mãi chỉ là một vết thương rỉ rả men
theo niềm nhớ.
Nga thương Thẩm,
rất thương. Cô muốn bù đắp cho Thẩm thật nhiều. Nhưng cô không biết mình nên
làm gì. Chỉ hơn một tháng sống với Nga, Thẩm như một cái cây héo vì bị bứt ra
khỏi cội rễ của nó. Da Thẩm xanh xao hơn, đôi mắt u uất và hoàn toàn lạc lõng. Nga
buồn bã nhận ra mình đã thương Thẩm không đúng cách. Sau khi đưa Thẩm đi mua quần
áo đẹp, một ít bánh trái, quà cáp và thật nhiều gấu bông đẹp đẽ - thứ mà Thẩm
có thể bỏ hàng giờ ngồi ngắm một cách say mê - Nga dự định, sáng mai sẽ đưa Thẩm
trở về nhà... Đêm đó, cô nắm lấy tay Thẩm áp lên mặt mình. Giọng nói Nga buồn
buồn như tiếng gió khuya lay lắt ngoài song cửa.
-
Chị ba biết Thẩm nhớ nhà lắm phải không? Thẩm
không quen sống ở đây với chị ba...
-
Thẩm nhớ nhà, nhớ... cha...
Thẩm là đứa
con út trong nhà. Đứa con gái sắp xỉ ba mươi tuổi nhưng nấp trong hình hài của
một bé gái chỉ tầm mười hai tuổi. Thẩm không may nhiễm phải chất độc hóa học da
cam từ lúc còn trong bụng mẹ. Cô bé bị hở hàm ếch, nói năng, suy nghĩ hay hoạt
động đều chậm chạp. Nhưng ẩn sâu bên trong đứa con gái bất hạnh đó là một tình
thương yêu vô điều kiện, một trái tim thánh thiện. Khi gia đình tan đàn xẻ nghé,
chỉ một mình Thẩm còn bên cạnh người mà trước giờ Nga gọi là cha, nấu cơm cho
ông ăn, giăng mùng cho ông ngủ lúc say xỉn, dọn dẹp nhà cửa và chăm chỉ trồng
những luống hoa mười giờ xung quanh nhà. Thẩm chịu trận những cơn điên của người
đàn ông đó. Thẩm hay ăn đòn oan và Thẩm thường bị đuổi ra khỏi nhà, ngồi ngoài
hè đập muỗi cho đến khi tối mịt. Chờ khi cha ngủ say rồi, Thẩm mới len lén mở cửa
vào nhà, lại tận tụy chăm sóc ông bằng một tình thương dung dị, ấm áp, tự nhiên
như chính dòng máu thuần khiết, hiền lành, chân chất luôn chảy trong huyết quản
của mình.
Còn Nga, dù
may mắn có một cơ thể khỏe mạnh nhưng trái tim cô từ lâu đã không còn nguyên vẹn,
vì đã trót bị ghim lên đó những vết thương khó lành lặn. Phải chi thời gian quay
lại, phải chi có phép màu nào đó để cô có thể trở về ngày xưa, có lẽ Nga sẽ cố
gắng học cách để tha thứ và nói lời xin lỗi thay vì chạy trốn, thay vì cứ buông
ra những lời xé ruột bầm gan. Nhưng thời gian không quay trở lại bao giờ. Vạn vật
có thể sẽ tuần hoàn, một điều gì đó vẫn ở đấy, vẫn là chính nó nhưng không bao
giờ là nó của cái thưở ban đầu. Mọi cơn gió đều giống nhau nhưng mỗi mùa gió ở
từng thời điểm lại gợi những nỗi niềm rất khác.
Người ta nói,
gió tháng giêng đưa đẩy rất dễ khiến người ta bồi hồi nhớ về những điều đã cũ.
Thật vô lý khi cho rằng mọi bất hạnh của gia đình Nga, bằng đầu từ những cơn
chướng đầu mùa. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, rất khó để Nga có thể nghĩ khác đi được.
Hoặc khi nghĩ như vậy, thì tất cả đều trở nên mờ nhạt, trong đó, bao gồm kể cả
sự thù hằn, kể là nỗi đau.
Dạo đó, không
hiểu bắt đầu vì đâu mà men theo tiếng gió, tin tức loang khắp làng trên xóm dưới
về gốc gác của Nga. Gió đưa đẩy, thì thào bên tai cha Nga vô số lời lẽ oan nghiệt:
Là bộ đội mà ngu ... cứ làm thân tu hú
nuôi quà quạ mà không hay... Con Liễu hồi đó đẹp chết người, thằng nào ngu,
nhào vô cuối cùng thì thì thằng ấy hốt vỏ... Một buổi trưa, chính mắt Nga
đã thấy cha mình đứng chết trân bên mái hiên. Trên tay ông, ly siro màu đỏ đã
méo vụn. Từng giọt, từng giọt tức tưởi bị bóp nghẹt rơi xuống đất. Nga nín thở.
Trong khoảnh khắc ấy, Nga thấy dường như có cánh tay nào đó kéo cô rời khỏi nơi
đang đứng, khiến khoảng cách giữa cô và cha mình qua từng giây phút trôi đi lại
càng thêm xa cách. Mỗi khi lén nhìn, Nga thấy mặt cha tái đi. Dần dà, cô phát
hiện mỗi ngày ông đều nhìn Nga bằng cái nhìn như cắm sâu vào đó nỗi căm giận. Mọi chuyện như tức nước vỡ bờ khi một ngày đi
học về, một cụ bà như bước ra từ truyện cổ tích, bước xuống từ chiếc xe bốn
bánh. Bà đến gần Nga, xoa đầu, hôn trán, còn tặng Nga một gói quà. Bà ôm Nga
vào lòng chặt đến nỗi, Nga nghe thấy tiếng nhịp tim người già động đậy trong lồng
ngực. Bà cụ đi rồi, Nga và đám người qua đường còn đứng đấy ngẩn ngơ.
Và nhanh hơn
cả một cơn gió…
Người ta cho
cha Nga biết bà cụ ấy là mẹ của một sỹ quan ngụy, hôm nay về tìm mộ con theo lời
của một nhà ngoại cảm ở làng này. Đó là một người lính thường xuyên có mặt tại
nhà của cô Liễu khi lính quốc gia còn đóng chốt trong xóm. Lúc ấy, ông Tánh -
cha Nga - còn xông pha ngoài chiến trường. Người ta tiếp tục xì xầm: Muốn biết ông sỹ quan đó đó ra sao thì cứ
nhìn con Nga thì biết. Trong mấy đứa con ông Tánh, coi mặt mũi con Nga có giống
đứa nào không...
Người ta còn
nói, sớm muộn gì Nga cũng đi thôi, đi tìm đúng gốc gác tông chi dòng họ. Lá rụng
về cội mà. Và người ta con nói bao nhiêu điều nữa, dệt thêm nhiều màu sắc nữa
cho mới mẻ, cho thêm phần kịch tính. Nga nhìn họ, biết rằng những câu chuyện từ
các khuôn miệng giống nhau kia sẽ tuôn ra bất tận. Rồi cũng giống như một cái
vòi rồng, nó hút tất cả nỗi nhọc nhằn, sự đố kỵ, khổ đau, thua thiệt và cả bao
nhiêu trái khoáy vào đó để thỏa mãn chính họ trong phút giây chán chường hay
nhàn rỗi. Chiếc vòi rồng ngày càng khổng lồ hơn khi được nuôi dưỡng bằng quá nhiều
thứ cảm xúc. Chiếc vòi rồng luôn xoay tròn. Không may, thời khắc này, chĩa đúng
hướng gia đình Nga mà xả xuống bao oan nghiệt. Tất cả người nhà, cha, mẹ, Nga
và các chị em đều phải trân mình chịu trận cơn tai ương từ trên trời ụp xuống.
Chị hai Nga có
chồng xa nhưng rất hay về thăm nhà. Lần nào có chị về, cha Nga cũng ra chợ mua
rất nhiều ly siro sữa cho con và cả cháu. Nhưng từ dạo thấy những ly đá bào bị
ném tung tóe trên nền đất, chị cũng ít lui về hẳn. Thẩm hay ngồi lỳ ở gốc dừa,
cạnh bờ ruộng sau nhà, tìm hái những bông cỏ gà rồi tự chơi một mình, vừa hậm hực
quất cỏ gà, vừa khó chịu kêu ré lên. Nghe những tiếng kêu re ré nặng nề phát ra
từ cổ họng nghẹn ứ của em gái, Nga cảm tháy như có ai lấy đá dằn mạnh xuống ngực
mình. Nga vẫn đến trường như mọi khi, chỉ là thấy con đường đi dưới chân như
dài và xa hơn nhiều lắm. Còn hơn tuần nữa nhà trường sẽ cho học sinh nghỉ Tết.
Đến lúc đó, không biết Nga sẽ làm gì cho qua hết một ngày. Sắp Tết mà trời vẫn
còn hay mưa. Khác với mọi năm, Nga có cảm giác mọi thứ dưới vòm trời đang sống
phủ lên một sắc thái rất lạ, không còn rôm rả nói cười, không thấy nhà nào làm
cốm, không ai ra sân tỉa mai, không có tiếng xôn xao của đầu trên xóm dưới lúc
người ta xúm xít nhau chia thịt heo. Cũng không còn trông thấy vài cái lưng đàn
bà chen chúc dưới bến lấy gạo đổi nếp từ mấy ghe hàng bông từ miệt trên đổ xuống...
Cả xóm thưa thớt người qua lại. Hoặc họ vẫn ở đấy, cười nói, đi đứng và vẫn rổn
rảng đẩy những câu chuyện về phía gió trời, nhưng Nga không tài nào thấy được họ
trước mặt mình.
Nhà Nga lúc
này cũng rất lạ. Nga nghe rất rõ mùi lúa chín thơm bay theo gió thoang thoảng
vào nhà. Cá khô mẹ phơi chưa đặng nắng, vẫn còn ẩm ương trong mấy đan tre. Mai
vàng gặp mưa phùn nở sớm, tàn rụng đầy trước cửa. Cha nốc rượu không ngớt. Mẹ cố
thủ trong gian bếp. Có cái gì nặng trĩu trong lồng ngực Nga. Từ lúc Nga tha giỏ
quà to tướng đó về nhà, thì giống như những câu chuyện cổ tích mà ti vi thường
hay chiếu, ngôi nhà cô bị phép thuật của bà phù thủy hắc ám trù yểm. Chỉ một
đêm, mùi rượu khăn khẳn thay mùi thơm của lúa mới, sự trầm lặng thay cho tiếng
cười nói. Cha không bước ra khỏi cửa, không hé răng nửa lời, chỉ uống rượu cho
đến khi ngã bệch trên sàn. Bếp than đỏ lửa in rõ hai bóng tròn trên vách. Thẩm
vỗ lưng mẹ như vỗ về một con búp bê của nó lúc bị mèo cấu mất một tay. Thỉnh
thoảng mẹ ôm Thẩm, nấc lên. Nga thấy mình bị đánh bật khỏi nơi được gọi là nhà.
Nga cảm thấy mình giống sao chổi. Miệng Nga lạt lẽo. Cô thèm vị ngọt của siro.
Nhiều bận tan trường, một mình Nga lại quán cóc, ăn mãi món siro đến khi cổ họng
tê cứng. Nga cứ ăn hết ly này đến ly khác, vì không hiểu tại sao, vị siro vừa
tràn qua lưỡi đã đắng nghét chứ không phải là món siro sữa thơm ngọt mà cô vẫn
mê mẫn mọi khi. Nga vừa ăn vừa quệt những dòng đắng lăn dài trên gò má, mãi khi
trời đứng bóng mởi lủi thủi rời đi.
Thẩm rúm ró
chạy ra đón Nga với vẻ mặt méo mó đến tội:
- Ma... Con ma… nó… nó… ở trong… người… cha a... a… a…
Hôm đó, nấp
sau vách hè, chính mắt Nga đã thấy con ma đó đã đủ lớn. Rượu đã nuôi nó lớn. Nó
lấp ló trong nhân dạng của cha. Ông hất nồi cơm mẹ vừa mới nấu, tát mẹ ụp mặt
xuống đất, rồi tự mình vò đầu bức tóc, giậm chân khóc ròng. Con ma trừng mắt đó
hét lên: Nó là con ai mày nói đi? Nó
không phải con tao... Mày dan díu với thằng mọi rợ kia, đẻ ra nó lúc tao không
có nhà... Mày sinh cho nó đứa con trắng trẻo, đẹp đẽ. Còn con Thẩm... là mày...
Thứ lăng loàn trắc nết, dẫn đứa con hoang
biến đi, biến hết đi...
Mắt Nga nhòe
đi. Cô thấy mình sắp bị chôn trong tiếng gió.
Nga chạy. Thẩm
nắm lấy tay Nga cùng chạy, cứ cắm đầu chạy mãi trên bờ đê đang tắt dần màu nắng
buổi trời chiều. Gió chướng rượt sau lưng Nga, gió làm lòng Nga lạnh toát. Tay
Thẩm trong tay Nga cũng lạnh. Nước mắt chắc cũng lạnh như vậy là cùng. Đến khi
Thẫm đã gục trên vai chị, Nga kịp bình tĩnh trở lại thì trời đã tối sẫm, nhưng
gió vẫn rờn rợn sau gáy. Nga cõng em trên lưng đi trên bờ đê. Nghe tiếng Thẩm
thở đều, phía dưới là lòng sông lạnh lẽo. Ánh tím tan tác còn sót lại, hắt lên
bờ đê hiu hắt. Buổi chiều ảm đạm này có lẽ mãi mãi theo Nga đến tận cuối đời. Lần
đầu tiên, Nga thấy mình mất phương hướng, không giống như cái lần bị lạc giữa
chợ huyện. Lần ấy, Nga cũng hoảng lên nhưng không phải là thứ cảm giác này. Vì
Nga biết cha đang tìm mình. Sớm hay muộn, rồi cha cũng tìm được Nga. Cho nên,
dù rất sợ nhưng Nga không khóc, cũng không hoài nghi bất cứ điều gì. Khi bàn
tay cha nắm được Nga, cô bé sáu tuổi lúc ấy vỡ òa, nhưng thấy ấm áp như nhận diện
được mặt trời. Còn bây giờ, mọi thứ tương tự như niềm tin, như sức mạnh, dường
như đã bị xóa sạch.
Về đến nhà, Nga thấy mẹ nằm trên đất. Búi tóc
mẹ xổ tung, trùm kín lòng vị tha của đứa con gái non dại. Nga phát điên khi thấy
tóc mẹ loang máu đỏ. Trong khi cha vẫn còn bị nhấn chìm trong cơn giận hừng hực,
mẹ Nga đã bất tỉnh, nước mắt còn đọng trên gò má. Càng lay mẹ, Nga thấy máu đỏ
rịn ra mỗi lúc nhiều hơn. Nga không còn biết gì nữa. Nga gào lên: Bớ người ta cứu mẹ tôi! Mẹ ơi, mẹ đừng chết!
Lúc mẹ nằm
trên băng ca trắng toát, Nga vẫn thấy trước mắt mình, cha bất động, môi run
run, mắt vằn tia đỏ, máu vẫn còn rịn ra. Nga thấy rất rõ, máu ấy từ trái tim
cha mà rịn ra, tím bầm, nhức nhối.
Lúc đó Nga
đang học năm cuối trường cấp ba ở huyện. Nga quay sang định gọi cha, nhưng có
cái gì đó nghèn nghẹn, khiến Nga không thốt được nên lời.
... Đồ con hoang...
… Kể từ bây
giờ, ông không còn là cha tôi nữa...
Nga không thể
chịu đựng những âm thanh sắc nhọn đó thêm một lần nào nữa. Từng ngày, từng
ngày, tưởng chừng có những chiếc gai đâm sâu hơn vào trái tim Nga. Nga cũng
không thể ở lại, vì mỗi lần Nga nhắm mắt là cô thấy mình và cả ngôi nhà bị gió
bứng lên, bay lơ lững giữa không gian tím bầm, nhức nhối.
*
Nga chỉ ôm theo một chiếc cặp đựng vài bộ quần
áo và khoác thêm chiếc áo gió cũ mẹ mua cho cô hồi đầu mùa gió năm trước. Trên
chuyến xe năm ấy, Nga đã là một con người khác, một con người không gốc tích,
không người thân thuộc, như một trái bóng bị đá lăn vào đời và phó mặc cho số
phận. Gương mặt đứa con gái bỏ nhà đi từ đó lạnh tanh. Một gương mặt không có
gì đặc biệt ngoài việc người ta khi nhìn vào là có thể thấy được, đằng sau đó
là một quá khứ chẳng lấy gì vui vẻ.
Nga trở nên
gai góc, lúc nào cũng có thể xù lông, thậm chí biết hung tợn đánh nhau để kiếm
tìm sự công bằng. Cô đã bị cào rách cả lưng, bị đập cây vào đầu và suýt nữa bị
cưỡng hiếp. Nhưng vượt lên lên tất cả để sinh tồn, Nga sống như một thân xương
rồng, táo bạo, hung hăng đương đầu với cuộc sống như bản năng của loài thú
hoang bị dồn đến bước đường cùng. Sóng gió cũng mệt nhoài trước đứa con gái trơ
lỳ. Cuối cùng, mọi thứ cũng qua. Nga phụ việc không công để được đổi lại chỗ ăn
ngủ ở một tiệm bán mì truyền thống của người Hoa. Ít lâu sau đó, Nga bắt đầu
công việc khác bằng cách bán báo, bán bánh mì, rửa chén thuê kiếm kiến. Nga dần
tìm ra cho mình những mục tiêu để tiếp tục sống. Đó là sống chứ không phải tồn
tại. Nga xin vào học ở một trung tâm tiếng Anh vào ban đêm. Những ngày đầu đi học,
Nga không thể nhìn ai. Nga phải mang bao tay đến lớp để che đi vết thương. Hai
tay cô hoàn toàn bị lở loét do phải ngâm quá lâu trong dung dịch rửa chén. Nga
còm cõi vì làm việc quá sức. Cô ăn đồ ăn còn dư sau khi dọn dẹp gian bếp nhà
hàng và lau cả mũi giày cho khách để có thể nhận tiền boa. Ngày làm phục vụ, tối đi học. Sáng Nga dậy thật sớm, tranh thủ
đi phát báo trước khi vào nhà hàng làm việc. Dần dà, với bao nhiêu nỗ lực và cố
gắng, khi Nga tự tin với vốn ngoại ngữ của mình, một thế giới khác được mở ra. Nga
được chuyển lên làm phục vụ khi một lần, người quản lý nhà hàng phát hiện cô
giao tiếp trôi chảy với khách nước ngoài. Nga nhận tiền boa nhiều hơn những phục vụ khác, nhờ sự tận tình và chịu khó đến
phi thường. Nga thấy mình đã bắt đầu sống như một con người. Những buổi nói
chuyện, giao lưu với nhiều vị khách đến từ những đất nước khác nhau đã khiến
Nga thêm bản lĩnh để bắt đầu lập trình lại mình, khám phá cuộc sống này theo một
cách khác. Nga cho phép mình hoạch định con đường mà cô sẽ đi và phải đi. Không
phải là ước mơ mà nhất định, nó phải là hiện thực. Nga học bổ túc rồi tốt ngiệp
phổ thông, sau đó đăng ký thi đại học. Không còn khó khăn gì nữa để trở thành một
sinh viên xuất sắc vì mọi sự thống khổ, khốn nạn nhất, khó khăn nhất, Nga đều
đã trải qua hết rồi. Cô vừa học vừa làm, vừa săn học bổng. Nga giống như một con ngựa chiến, khi đã rời vạch xuất
phát thì chỉ còn nhắm thẳng đích đến mà thôi.
Không có gì làm khó được Nga, ngoại trừ kí ức
của chính cô. Những gương mặt giống nhau, tiếng xì xầm to nhỏ và tiếng gió gào
thét ngoài cửa sổ luôn gợi lại những nỗi đau thật gần. Từ khi xa nhà, Nga đã phải
luôn chiến đấu với những giấc mơ. Khổ sở đến nỗi, nhiều lúc Nga tưởng mình gần
như kiệt sức. Không biết bao nhiêu lần khi tỉnh dậy, Nga ngồi lặng lẽ lau hết
những vệt ngoằn ngoèo trên mặt, rồi hít thở thật sâu, tự nhắc nhở mình phải gạt
bỏ quá khứ, để tiếp tục bước đi, tiếp tục sống còn…
Ba năm du học
tại nước ngoài với suất học bổng toàn phần, Nga đã sống ở một đất nước mà mỗi
buổi sáng thức dậy ở nhà, người ta sẽ hôn chào nhau trên trán hay trên má, được
ăn hạnh nhân nướng trên bánh mì và uống một cốc sữa ấm trước khi rời đi, đôi
tay bọc trong những đôi găng ấm và áo choàng trong những ngày trời rét mướt.
Nhiều khi lơ đễnh với cốc cà phê nóng ở hành lang trường học, Nga chợt nghĩ, có
phải lúc này, ở quê hương của mình, người
ta nghĩ rằng, đứa con gái này đã chết hoặc đi Mỹ đoàn tụ theo diện bão lãnh gì
đó. Những câu chuyện nấp sau lũy tre làng, chắc vẫn còn loang xa trong gió. Nhiều
lúc, Nga phải vật lộn với chính sự mâu thuẫn trong lòng mình, vừa ghét, vừa
thương những gương mặt giống nhau, cả đời cặm cụi để rồi rất dễ dàng bị lôi đi
trên những lối mòn...
Còn ở đất nước
xa lạ này, Nga chỉ có một mình. Chẳng ai quan tâm đến một đứa con gái châu Á
làm gì. Nga không cần gồng mình để che đi những cảm giác khó chịu. Nga có thời
gian để lắng nghe chính mình. Cô thích ngắm những cặp đôi, mắt họ vui quá. Họ
ôm hôn nhau bất cứ nơi đâu. Người đàn ông nào cũng lịch thiệp, khi trên tay là một
bông hồng đỏ khi cùng đi ăn tối với bạn gái. Nga vẫn tranh thủ làm phục vụ ở
các nhà hàng tầm trung tại vùng ngoại ô. Người ta vẫn nhận du học sinh với mức
lương thấp hơn người bản xứ. Bù lại, những khoản tiền boa luôn có thể chấp nhận được. Nga cũng không quá bận rộn vì chỉ
làm vài tiếng đồng hồ trong ngày. Nga thích chỗ làm của mình. Đấy là một nhà
hàng nằm bên một dòng sông uốn cong rất đẹp. Những chiếc thuyền nhỏ được thả
trôi tản mạn giữa dòng nước mùa thu. Hai bên bờ là những hàng cây đương trút lá
vàng. Lúc không quá bận, Nga thường nhìn ra hướng dòng sông và bao giờ cũng thấy cảnh tượng những cặp đôi nằm dài
trên thuyền tắm nắng. Họ nói chuyện, hôn nhau rồi nằm cười rũ hoặc sau đó cùng
nhau chèo thuyền hay cứ nằm đề mặc thuyền trôi. Tình yêu làm họ đẹp hơn, biến họ
thành những điểm nhấn hoàn hảo cho bức tranh phong cảnh lãng mạn của mùa thu và
nó làm Nga thấy vui hơn... Cô gái đang sống ở lứa tuổi thanh xuân nhưng chưa từng
yêu, chưa từng sống với những tiếng nói bên trong của riêng mình, bỗng dưng
khao khát những nụ hôn và những vòng tay ấm.
Nga gặp Alex ở
trường. Một anh chàng người Ý, cao hơn Nga một cái đầu và có nụ cười thật đẹp.
Alex rượt theo Nga đến tận chỗ làm, để chỉ trả lại cho Nga chiếc kẹp tóc màu
xanh lá. Chuyện gì đến cũng sẽ đến, dù cô được hội bạn người Việt cảnh báo con
trai Ý vô cùng ga - lăng nhưng đào hoa và thiếu chung thủy. Nga vẫn chấp nhận để
một lần sống với chính những nhịp đập nồng ấm của trái tim mình. Nga thích những
cái ôm hơn là những nụ hôn, vì vòng tay Alex rất rộng và ấm, vì khi Nga nhắm mắt
lại, thấy cuộc đời mệt nhoài của cô và cả vết thương lòng bị dòng nước cuốn đi
rất xa...
Alex đã làm
cho Nga thấy cuộc đời này vẫn còn chỗ cho mình. Những buổi hẹn hò nhiều tiếng
cười, cả hai quấn quýt không rời như đôi chim câu đang tận hưởng mùa hạnh phúc.
Vui nhất là cùng Alex lang thang phố cổ, chụp hình phong cảnh và tận hưởng sự
bình yên ở những thảo nguyên xanh. Tất nhiên là không thể thiếu những bữa tối
lãng mạn có ánh nến và những đóa hồng nhung đỏ rực. Nga đã sống những ngày
tháng ngọt ngào, nồng nàn và tươi mới như được tái sinh một lần nữa trong đời.
Nga bỗng thấy yêu những cơn gió bất chợt thổi đến, vì khi đó, cô sẽ như một con
mèo bé nhỏ được Alex ủ chặt vào lòng. Hơi thở của Alex khiến Nga đê mê nhớ về một
vị ngọt nào đó nằm rất xa trong tiềm thức.
Nhưng chẳng
tròn năm yêu nhau, Alex nói lời xin lỗi và kết thúc với tất cả cử chỉ trân trọng
đúng mực nhất. Thậm chí, Alex còn hôn cô rất sâu trước khi nói lời tạm biệt. Nga
đứng trước dòng sông ở ven ngoại ô một mình. Điều lạ lẫm là cô không buồn mà chỉ
thấy nhớ nhà. Cô chạnh nhớ đến những cơn gió lao xao thổi qua hiên. Lúc này,
Nga nghĩ mình đã trở thành một góa phụ, khi trải qua quá nhiều chuyện, cũng đã
đánh đấu thêm những cột móc đáng nhớ. Đối với chặng đường đã qua, đã đến lúc
không cần dùng đến con mắt phán xét rạch ròi mọi thứ để làm gì nữa. Vì quan trọng
hơn tất cả, Nga dần dà nhận ra giá trị của từng sự việc xảy đến trong đời mình.
Cô cũng đã có thể dành cho người cha tội nghiệp của mình nhiều thương cảm hơn
là trách cứ. Vì Nga từng thấy trong đôi mắt chứa đầy lửa giận ngày ấy, ngoài
cơn điên cuồng vì lòng tự trọng bị tổn thương, còn có sự đau khổ, dằn xé rất
khó để an ủi. Nga biết, còn có những vết thương khác, sâu hơn cả những vết cắt
của mảnh đạn nào đấy ở cánh tay ông...
*
Chuyến xe đưa
Thẩm trở về nhà băng đi rất nhanh. Càng gần đến nơi càng thấy màu xanh của cây
cối phủ lấp hết bụi mù phía xa. Nga thèm được hít đầy lồng ngực thứ không khí của
làng quê từ lâu lắm rồi. Thời gian qua, đôi lúc Nga chạnh nhớ đến tức tưởi những
thứ bình dị và nhỏ nhặt nhất trong ngôi nhà mà mình đã được sinh ra. Chái bếp
có những bó lá dừa khô được xếp gọn gàng. Góc nhà tối, khoảng sân rộng và những
bụi mai vàng trước sân đều trở thành nỗi nhớ da diết. Những mùa đông lạnh câm
trên nước Anh khiến Nga quay quắt, cồn cào nhớ về gian bếp nhỏ có bóng mẹ cặm cụi
nấu nướng. Thành phố là nơi Nga kí thác đời mình. Mỗi ngày cô đều để đầu óc
quay cuồng như một cỗ máy để rồi đêm đêm lại bơ vơ chìm vào mộng mị, thấy bản
thân trống hoác vì những nỗi nhớ khó gọi tên. Thật ra thì Nga cũng đã mệt mỏi với
những ương ngạch trong lòng. Càng về sau, Nga thấy mình ngày trước thật nông nổi.
Đối với cô bây giờ, có gì khác đi, nếu Nga không phải là con ruột, vì vốn dĩ có
rất nhiều thứ đã tồn tại bên trong Nga nhiều hơn là những sự khẳng định nào
khác. Nga đã lớn lên trong sự bảo bọc và yêu thương của người đàn ông khắc khổ
đó - người đã để lại một phần xương thịt lại chiến trường, nhưng vượt qua mọi
đau đớn để hòa nhập với cuộc sống, người đã hi sinh phần cuộc đời còn lại của
mình để nuôi lớn chị em Nga, người đã cho Nga niềm tin, sự khích lệ và những
bài học đầu tiên…
Nga nhớ mùa tết
nào cũng lẽo đẽo theo cha tuốt lá cho mai vàng ra bông. Hồi nhỏ, khác với chị
và em Thẩm, Nga được cha nuông chiều nhất. Nga hay được cha dẫn theo đi bất cứ
đâu. Thích nhất là mùa gió chướng non, cùng cha lội ruộng bắt thật nhiều cá để
mẹ làm khô dự trữ trong mấy ngày Tết. Nga theo cha như một cái đuôi nhỏ. Nga
thích tâm sự với cha hơn bất kỳ ai trong nhà, bởi hầu như lúc nào, cha cũng đứng
về phía của cô. Có lẽ, chưa bao giờ Nga nghĩ được rằng, có lúc, cô lại nhớ đến
cha với những cơn nghẹn dâng kín trong lồng ngực mình như thế này. Từ ngày Nga
bỏ nhà đi, mẹ Nga cũng về ở với vợ chồng chị hai Lụa. Chỉ còn Thẩm sống với cha.
Thẩm là người duy nhất chứng kiến cha triền miên trong cơn say, chứng kiến một
ông già vì những vết thương lòng mà ngày càng trở nên gàn dở. Nhớ lại chuyện
cũ, lòng Nga tràn ngập nỗi xót xa. Có lúc Nga tự hỏi, có phải bây giờ, những
giá trị sống đích thực ở làng quê dần tàn lụi, con người dần trở nên bất lực
trước những tai họa mang tính rủi may. Một vài gia đình với bao năm gắn bó cùng
nhau, chỉ vì vài câu bóng gió mà phút chốc thành lục bình trôi tan tác. Bao năm
qua, đã có bao đứa trẻ phải dứt áo lìa xa cội rễ của mình như Nga? Có bao nhiêu
đứa sống sót được trên con đã chọn, hay lại mất tích, hay bị lãng quên, giống
như khi qua mùa chướng, người ta cũng quên nhanh những cơn gió với bao nỗi niềm
chộn rộn phía sau hè. Nga có phải là con ruột hay không, từ lâu, Nga đã không
còn bận tâm nữa. Nga chỉ thấy đau lòng khi nhìn người ta trở nên lạnh lùng hơn
trước những bất hạnh của kẻ khác, khi người ta dửng dưng kể những câu chuyện là
nỗi đau của kẻ khác với thái độ như đang tận hưởng một màn giải trí nào đó và
khi người ta dễ dàng buông xuôi thứ hạnh phúc mình đang có mà không chút do dự,
tính toan. Về nước đã lâu nhưng Nga đã không trở về quê. Chẳng phải Nga không
nhớ mẹ, không nhớ nhà, không nhớ xóm làng, người thân mà trốn biệt ở Sài Gòn.
Nga không về vì chỉ sợ rằng sẽ lại rất khó khăn để cân bằng chính cảm xúc của
mình khi người ta lại tiếp tục vin vào đó, thêu dệt lên những màn kịch cân não
sau mỗi bước chân cô.
Với suy nghĩ
bù đắp cho em gái, Nga nhờ người đón Thẩm lên Sài Gòn và đã giữ Thẩm quá lâu
bên mình. Thẩm khờ khạo không biết thể hiện những điều mình nghĩ. Nhưng qua đôi
mắt buồn rười rượi, trong bất cứ câu chuyện nào, Thẩm đều nhắc đến cha. Dù khờ
khạo, nhưng mỗi ngày đúng 8 giờ sáng và 6 giờ chiều, Thẩm đều điện thoại về để
nhắc ông uống thuốc. Nhìn Thẩm, Nga nhận ra mình quá vô tâm. Đôi lúc, Nga bàng
hoàng khi biết rằng có một nhân diện khác bị khiếm khuyết quá nhiều nằm trong
chính bản thân cô. Nhân diện đó ngày ngày bưng bít những tổn thương để sinh tồn.
Nó ích kỷ và cô độc làm sao. Nó nhớ tiếng bìm bịp kêu chiều đến cháy lòng mà cố
cắn môi ngoảnh mặt xua đuổi đi hình ảnh chiếc xuồng cặm sào trên bến. Nó thèm nằm
trong góc nhà ấm áp, ngửi mùi khói phả ra từ chiếc áo bà ba nâu sờn của mẹ mà
chỉ dám hỏi han mấy câu nhạt nhẽo qua điện thoại. Nó muốn một lần nữa nhìn vào
đôi mắt cha, xoa dịu những tia đỏ rớm máu trong lòng ông mà cứ kênh người đứng
chôn chân ở Sài Gòn chật chội. Nó muốn nhìn lại những gương mặt quen, xem những
nét xưa hiền lành còn đó hay vẫn mịt mùng như những người vô diệm. Nhưng, những
mong ước đó hoàn toàn được thỏa mãn trong những giấc mơ chập chùng của Nga. Nga
từng rất lỳ lợm và rắn rỏi khi lao vào những cuộc chiến trên thương trường. Nhưng
khi đối diện với những nỗi buồn trong quá khứ, cô lại giống như một đứa trẻ,
hay chọn cách trốn ở góc cầu thang nào đó để âm thầm khóc mà không cho ai thấy.
*
Tiếng cười khúc khích của Thẩm loang xa trong
gió. Mái tóc hoe vàng của Thẩm bị che gần nửa mặt những vẫn không che được một
đôi mắt đang lấp lánh cười. Chỉ còn một đoạn đường ngắn là sẽ về đến nhà. Khi
tiếng nhà vừa cất lên, Nga đã kịp
nghe tim mình rung mạnh, vẫn còn thấy nhói và rưng rưng xúc động. Nhưng thôi,
giờ đây, Nga chọn cách bao dung để đi tiếp đoạn đường còn lại. Mặc kệ tất cả những
mất mát đã qua, Nga muốn để lòng mình được phơi trần, nhẹ nhõm như những ngày
còn nhỏ, cùng em gái trở về cái tuổi hồn nhiên, hai đứa cũng hay đi ngược gió,
vẫy vẫy đuôi tóc và cười rân, phá tan cái lạnh sương giá ngày cận Tết mà nô đùa
trên đường cùng mẹ ra chợ sớm. Không bao lâu nữa là lại hết một năm. Nga đang
nghĩ, có phải đã đến lúc, Nga vứt bỏ đôi giày boot, đi chân trần, hít hà từng đợt
gió ẩn trong đó những thứ mùi sum vầy, no đủ, dân dã và thấm thía quá nhiều nhớ
nhung. Quay sang nhìn em, Thẩm vẫn đang vui như một đứa bé. Mắt Nga lại vô cớ
nhòe đi mà không biết làm cách nào để nhìn căn nhà nhỏ đó được rõ nhất.
Bất giác, Nga
rùng mình nhận ra, gió mùa này vẫn còn lạnh lắm...
T.H
TRƯƠNG THỊ THANH HIỀN
NGƯỜI
NGHỆ SĨ
GIỮA
DÒNG SÔNG TRÔI
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi
(Tố Hữu)
Lúc đó má đứng
ngoài cổng, vẻ bồn chồn mong đợi, mắt cứ lấp lánh lấp lánh. Má có vẻ đẹp như Tố
nữ trong tranh, mắt môi như được một người họa sĩ tài hoa vẽ sắc nét trên khuôn
mặt thanh mảnh gọn gàng. Nhiều khi nhìn má vất vả lam lũ với bầy bò, ao cá, mảnh
ruộng để nuôi bầy con mười đứa, ba bỏ hết lại để tìm sự thảnh thơi trong chùa,
tôi tự nghĩ, má lấy đâu sức lực để làm ngần ấy việc mà vẻ mặt vẫn phơi phới, mà
nét đẹp vẫn không hề phôi pha theo năm tháng.
Má nheo mắt
tinh ranh khi tôi về tới:
-
Tao mua cho bây một món quà. Bây đoán coi là
cái gì?
-
Trời, bày đặt quà nữa. Bộ đồ hả? Má thấy đồ đạc
tui rách te tua nên mua chớ gì?
-
Hông phải
-
Cuốn sổ tay chớ gì?
-
Mua sổ tay làm gì?
-
Thì tui sắp đi du kích.
-
Hả, mày định đi du kích hả?
-
Chớ hông đi sao được. Bọn con trai trong làng
đi hết rồi. Làm con trai thấy làng mình hết người này bị giết hết người kia bị
đày, hông biết nhục sao?
Má thần người
ra, ánh sáng tắt hẳn trong đôi mắt vừa lóe lên như hai vì sao. Má thở dài thườn
thượt:
- Tao cũng
ghét, cũng căm tụi nó lắm! Nhiều khi muốn lấy cái đòn gánh quất tụi nó cho hả
giận. Nhưng bây đi rồi tụi em ở nhà làm sao. Toàn con gái. Bọn lính cứ lảng vảng
quanh nhà. Rồi sao má mần nổi để nuôi tụi nó. Chị Hai bây thì khờ.
Tôi cũng thần
ra một lát rồi cười xí xóa:
-
Thôi từ từ tính. Coi má mua quà gì cho tui
nè!
-
Kia kìa - Má liếc mắt ra hiệu ở đằng vách.
Thứ tôi nhìn
thấy trên vách, dưới tấm ảnh má chụp cùng út Nhạn, như không phải chỉ là cây
đàn phím lõm tôi hằng mơ ước, mà là cả một sân khấu hoành tráng cảnh Sở Bá
vương Hạng Vũ đối mặt cùng Hán vương Lưu Bang.
Tôi mang cây
đàn đến nhà chú Sáu Đờn. Cả bọn xúm vào trầm trồ cây đàn mới. Ui chèn ơi, thằng
Bình là nhứt xứ này rồi. Sau này thành nghệ sĩ lớn đừng quên tụi này nghen. Út
Nhạn ca đi. Út Nhạn mình không thua gì sầu nữ Út Bạch Lan đâu nghen.
Út Nhạn vẫn hồn
nhiên hát như mọi đêm, khi ban đờn ca tài tử của xóm cứ ăn cơm chiều xong là rậm
ràng rập rịch í a í ời đi ca tụi bay ơi. Những con Mén, con Mẹc, thằng Ngô, thằng
Ngố xúng xính những bộ đồ coi còn được được, phủi những đôi chân đầy cát, leo cầu
thang cao nghều nghệu lên ngôi nhà sàn của ông Sáu Đờn, ba Út Nhạn, giành chỗ
ngồi và hí ha hí hửng chờ đến phiên mình trịnh trọng đứng lên hát, thầm tưởng
mình là vương là tướng.
Đêm đó Út Nhạn
hát Phi vân điệp khúc. Bản này tôi
nghe từ khi út Nhạn còn ngọng nghịu nói không rành mà cứ giành hát. Bao nhiêu
đêm đã trôi qua. Bao nhiêu mùa gió chướng lạnh căm căm mà cả bọn vẫn rúc bên
nhau hát. Tiếng hát tròn dần, mùi dần theo từng vóc dáng lớn lên của bọn nhóc với
tham vọng cũng lớn dần lên của ông Sáu Đờn. Sao mình hông thành lập gánh hát vậy
ta. Tao gửi ba Bình và út Nhạn lên Sài Gòn học nghề rồi về thành lập gánh hát
nghe. Gánh hát mình đặc biệt hông cố định, mà ở trên ghe. Tao khoái đi đây đi
đó. Tao khoái hát cho bà con trong cùng, trong ngọn. Người ta nổi tiếng trên
sân khấu lộng lẫy, còn tao khoái nổi tiếng trên sông nước.
Nên ông vui
khi ba Bình có cây đàn mới, như thể ngày mai có thể tuyên bố với cả làng Khánh
Bình rằng, gánh hát của ông đã ra đời, với kép hát đẹp trai hào sảng, khí khái
vừa đàn hay, hát mùi là Bình Thiên, cái tên nghệ danh ông vừa nghĩ ra cấp thì
cho ba Bình và đào thương đẹp như hoa lục bình trôi lửng lờ trên sông Bình Di.
Một con công xòe đuôi ánh tím, ánh xanh lộng lẫy trên dòng nước trong xanh. Một
nghệ sĩ tương lai sẽ không thua gì Út Bạch Lan hay Bạch Tuyết. Từ nay gọi nó là
Bạch Nhạn nghen tụi bay. Vở tuồng đầu tiên mình diễn sẽ là Bạch nhạn rợp trời Búng Bình Thiên.
Bạch nhạn là
loài chim gì chưa từng ai thấy, càng không bao giờ rợp trời Búng Bình Thiên. Vở
tuồng ai sẽ viết ông còn chưa nghĩ tới, nhưng cả bọn nhao nhao lên cho con làm vua,
cho con làm hoàng hậu. Đứa tệ nhất cũng rụt rè lí nhí con làm nô tỳ cũng được.
Chỉ có nghệ
sĩ Bạch Nhạn tương lai, út Nhạn vẫn hát. Tôi ngồi đối diện út, tìm ánh mắt em
như muốn nhắn gửi lời ly biệt. Tôi đề nghị em hát lại lần nữa. Sao vậy? Đâu có
sao đâu. Chỉ là muốn nghe tiếng tri âm lần cuối. Mai này cuộc chiến sẽ ra sao,
ai còn ai mất, cung đàn này, khúc nhạc này như niềm đồng hành trên đường lập
chí trai bình thiên hạ, như cái tên Bình ba đã đặt cho. Hoài bão làm trai phải
có danh gì với núi sông của ba đã tắt ngúm theo thời cuộc, để ủ tro tàn trong
chùa, nay nhen dần trong tôi.
Như linh cảm
điều gì trong ánh mắt của tôi, út Nhạn khẽ gật đầu. Tôi dạo trên phím đàn mới.
Mười sáu tuổi của út Nhạn là mười sáu năm Phi
vân điệp khúc ướp hồn em từ tiếng hát của người mẹ rồi tới giọng hát của
chính em.
Tiếng... tơ... đồng ơi! Sao buồn rơi, âm ba não nề? Rơi vào đêm
đen mù khơi.
Ai?... Ai
người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương, đàn với ta réo kêu khúc tình
thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng son. Ta
với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Thương... thương sao tiếng đàn nhỏ giọt buồn rơi chắt chiu với đời,
cung đàn hòa máu, máu tim đỏ hồng. Ôi, tình ta xin gởi vào theo tiếng tơ. Ôi,
tình ta xin gởi lại theo tiếng tơ. Ôi, tình ta xin để lại theo tiếng tơ...
Khi tôi còn đắm
đuối theo tiếng tơ thì chú Sáu Đờn lẳng lặng đi ra sau hè, ra miết bờ ruộng mấp
mé nước dập dềnh. Nước tràn đồng rồi. Khi tôi thắt lòng dứt ra khỏi tiếng hát của
út Nhạn xuống đứng kế bên ông thì ông nói như vậy:
-
Bây đã suy nghĩ kỹ chưa? Mẹ con Nhạn sẽ đưa
nó lên Sài Gòn. Dù hư thúi cỡ nào cũng là mẹ. Huống chi, suy cho cùng cũng tại
mình bất tài không giữ được người ta. Bả nói nếu bây và con út sâu nặng thì bả
đem cả hai đứa lên đó dạy cho thành tài. Bây nghĩ sao?
-
Con phải ra đi.
-
Dứt khoát như vậy luôn hả?
-
Dạ
Khi tôi và ông
trở lên nhà thì Út Nhạn đang đóng Tây Thi. Ông Sáu trân trối nhìn con đang rơi
lệ. Ông lẳng lặng gạt con xuống, ôm đàn tự mình hát lớp Phượng hoàng, giọng buồn não nuột như cái lúc ông hát khi mẹ của út
Nhạn bỏ theo đoàn hát cải lương đào kép sáng trưng đầy mê hoặc dạo nào.
Tây Thi ơi! Nàng có biết không
Cho nỗi khổ biệt ly sầu
Từng đêm ngậm ngùi ta thức trắng
Cả một bầu trời vừa sụp đổ dưới chân ta
Nàng về với Ngô vương
Với nhung lụa, vàng son trong gác phượng, cung hoàng
Bỏ lại mình ta ôm mối hận lòng
Gối lẻ, chăn đơn, ta bàng hoàng xót thương cho số phận
Bởi ta bất tài nên đành để mất Tây Thi.
Lời ca theo
tôi xuống ghe, xuôi dòng sông Bình Di, qua căn cứ Vạt Lài. Đó là chiếc ghe ông
cho má tôi mượn tiền mua để chị Hai tôi đi buôn bán, vì sau khi tôi đi, những
công việc nặng nhọc trong nhà không còn ai làm nổi. Sau này khi chị Hai không
còn đi buôn nữa, chiếc ghe trở thành chiếc ghe hát tài tử. Những đứa bé trong
ban đờn ca tài tử của ông ngày nào không bao giờ được bước lên sân khấu, kẻ tù
đày, đứa hy sinh, còn lại vẫn như muôn đời cha ông mình, làm một anh nông dân
ngày quần quật, đêm mơ khúc tình tang. Nhưng ước mơ của ông, má vẫn duy trì ban
hát với những con út, thằng ba mới, vẫn đến tận trong cùng, trong ngọn hát đám
tang, đám cưới, hay không đám gì cả, lửng lờ thả ghe trôi trên sông mà Tây Thi ơi! Nàng có biết không cho nỗi khổ
biệt ly sầu?
Ông đưa tôi
đi. Dáng chèo xuồng của ông như một dây đàn chùng xa xót nỗi tiễn đưa. Má tôi
và út Nhạn đứng trên bờ trông theo. Xa hơn nữa, dưới mỗi bụi chuối, hàng dừa, gốc
me, đám sậy, là những gương mặt lấp ló của mấy chị em tôi. Một cuộc tiễn đưa
không bí mật cũng chẳng công khai.
Cây đàn treo
trên vách. Mỗi lần Bạch Nhạn về là qua nhà đàn hát với má tôi. Cô đào Bạch Nhạn
nổi tiếng Sài Gòn với vai Tây Thi ôm nỗi sầu thân Ngô hồn Việt, lộng lẫy áo bào
vương giả, nhưng khi về với má tôi vẫn đằm thắm nết na, áo bà ba nón lá má ơi
má à. Hai má con kẻ đàn người hát, nuốt vào lòng bao nỗi đớn đau thời chiến
binh loạn lạc. Tiếng đàn lần lượt đưa từng người về cõi xa xôi, nào ba tôi tịch
viên mãn một đời tu hành, đi về cõi cực lạc một mình mặc đời thịnh hay suy, mặc
bầy con nheo nhóc một mình má tôi bươn chãi. Tiếng đàn đưa ông Sáu Đờn đi trong
bản Phượng hoàng đau đớn. Tiếng đàn
đưa em Năm tôi, cũng là bạn thân tình của út Nhạn, đi trong một sáng tinh sương
hòa tiếng súng gọn bâng vào tim. Máu tim em tràn ra đỏ cả dòng sông Bình Di,
xác nằm phơi trên bãi tím ngắt hoa lục bình, sóng đánh dạt vào bờ, dưới cái
nhìn đau đớn của má tôi. Tiếng đàn đưa em Bảy tôi tay bị cùm ra Côn Đảo rồi mãi
mãi không về. Đoản khúc Lam Giang em
thường hát thành bài ca lãng du hòa cùng sóng biển.
*
Đó là đêm
mùng hai rạng mùng ba Tết Mậu Thân năm 1968. Tôi nhận lệnh tiêu diệt bọn lính
đóng trong đồn Khánh Bình để mở đường cho chủ lực.
Tôi không nói
với cả tiểu đội du kích của mình đó là ngày tôi tròn mười tám tuổi. Tôi hào hứng
với trận đánh đầu tiên tràn đầy niềm tin thắng trận như món quà mừng sinh nhật
cho chính mình, đánh dấu cho giai đoạn mới của cuộc đời. Tôi không biết nhiều về
tình hình trước đó, dù những diễn biến của cuộc chiến cách đó vài ngày có liên
quan đến trận đánh nhỏ nhoi vô danh của tiểu đội tôi, ở một ngôi làng cũng nhỏ
nhoi xa xôi tận miền quan tái của tôi. Tôi chỉ biết nhận lệnh và thi hành mệnh
lệnh, biết giữ vững niềm tin vào thắng lợi sau cùng. Đêm giao thừa, qua radio,
tôi cũng được nghe bài thơ chúc Tết của Bác Hồ, hiệu lệnh mở màn chiến dịch Tết
Mậu Thân vang dội toàn cầu sau này:
Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!
Nhưng mãi sau
ngày giải phóng, tôi mới biết được toàn bộ diễn biến của trận Mậu Thân năm ấy,
biết được khi cả tiểu đội du kích của tôi lội sông Bình Di từ Vạt Lài qua Khánh
Bình, rằng quân khu 5 đã nổ súng trước giờ G, làm lộ bí mật, vì miền Bắc và miền
Nam áp dụng lịch khác nhau, rằng những trận đánh khốc liệt nhất của biệt động
đã nổ ra ở Sài Gòn, rằng cuộc tấn công của quân giải phóng đã lan ra khắp miền
Nam tới tận Châu Đốc. Trong giờ phút tôi lom khom dẫn cả tiểu đội tiến vào
đình, chắc hẳn cũng có hàng ngàn tiểu đội khắp miền Nam cùng tôi tiến công bao
đồn lũy khác, hẳn cũng có hàng vạn thanh niên mười tám đôi mươi mặt trong trẻo
hồn nhiên như tôi ôm súng và lý tưởng bước vào trận.
Đình Khánh
Bình không chỉ là cái đình, mà đó còn là ngôi nhà chung của toàn thể dân chúng
làng Khánh Bình. Mỗi năm, hễ vừa ăn Tết xong là cả làng háo hức chuẩn bị ngày
cúng Kỳ yên vào rằm tháng 3 của ngôi đình nổi tiếng nhất trong vùng đã tồn tại
hằng trăm năm, đã được sắc phong Thần Hoàng Bổn Cảnh của vua Bảo Đại vào năm
1932. Nhưng điều tạo niềm tự hào của làng Khánh Bình đó đối với bọn trẻ chúng
tôi không phải là điều quan trọng. Quan trọng là ngôi đình là nơi diễn ra những
trò chơi đánh trận giả rất hoành tráng của bọn con trai chúng tôi, khi những
trò leo cây, tắm sông... không còn hấp dẫn nữa. Tôi làm tướng, trong thâm
tâm nghĩ mình cỡ như Hàn Tín đứng giữa cổng
đình bề thế như cổng thành, với hai con hổ đá dũng mãnh đứng hai bên cổng và
hai con rồng chầu vòng lửa trên nóc đình. Quân sĩ xếp hàng dọc đều tăm tắp sau
lưng tôi, mỗi đứa cầm một cây ná giây thun nạp sẵn đạn bằng trái ổi nếp non mọc
hoang khắp nơi. Cả đội quân đang chờ đợi sự tấn công của kẻ thù, đội quân con
nít từ làng bên kia sông Bình Di, làng đa số người Việt từ Campuchia về, chiến
tranh loạn lạc khiến họ hết lưu lạc từ Việt qua Miên rồi từ Miên về Việt, lúc
phe quốc gia, lúc phe Việt cộng, tùy Quốc vương Campuchia ngã theo phe nào.
Chúng tôi ra sức bảo vệ cái đình vốn không cần sự bảo vệ. Chỉ là chúng tôi tự
cho nó là cung điện của chúng tôi với những ban bệ thờ bên trong sơn son thiếp
vàng lộng lẫy như cung vàng điện ngọc. Những trận đánh bên nào cũng thua, đầu u
trán bầm với kết cuộc đứa nào cũng bị lôi về nhà với những trận đòn vì bỏ heo
đói, bỏ em bị té cầu thang, bầy vịt lạc mất không ai lùa về...
Bọn trẻ đánh
trận giả ngày ấy giờ cũng thành hai phe. Phe địch đóng quân trong đình và phe
ta mà tôi đang dẫn đầu bao vây xung quanh đình. Bọn chúng trong đó có những đứa
nào tôi đều rõ. Đứa nào giỏi nhất về bơi lội, có thể lặn cả buổi trời mà không
biết được đang ở đâu dưới đáy sông, có thể bơi dọc sông Bình Di mà không cần phải
leo lên bờ, đứa nào cùng tôi thả diều những chiều lộng gió, đứa nào giả đào đẹp
tuyệt trần cùng tôi hát khúc Nam ai...
Nhưng điều
tôi không rõ nhất đúng ra tôi phải biết trước khi dẫn quân đến đây, điều mà chủ
quan trong trinh sát khiến tôi phải ôm hận đến sau này, không bao giờ nguôi được,
là ngôi đình sinh ra tôi đã sống cùng, đã lăng quăng cùng nó theo năm tháng, đã
được tụi địch của tôi, cái tụi cũng
đã lớn lên cùng ngôi đình như tôi, tường tận từng góc đình, từng cái cây ngọn cỏ
xung quanh đình không thua gì tôi, đã cho đào hai cái hầm ngầm kiên cố trong
đình và một hệ thống giao thông hào đủ sức chống trả cả một tiểu đoàn chứ không
phải một tiểu đội nhỏ nhoi của tôi. Kết quả trận đánh không như năm xưa, đứa
nào đứa nấy mếu máo, líu ríu theo cha mẹ về nhà, mà sân đình Khánh Bình ngập ngụa
máu và xác chết của cả hai phe. Cuộc chiến sinh tử khiến không còn ai quan tâm
đến chuyện thằng trong đình hay ngoài đình kia là thằng từng cùng nắm tay mình
nhảy từ trên cầu xuống sông cười nắc nẻ hay thằng mình đang nhắm súng bắn trúng
vào tim là thằng từng cùng mình hát những bài lý mặn nồng tha thiết. Cảm giác
cuối cùng trước khi tôi bị bắt là tôi đau đớn trái tim như hóa đá khi nhìn thằng
Kheo ngọng đớt chỉ dám xin làm quân hầu trong các tuồng hát, ngã gục trước mặt
tôi từ viên đạn bắn ra từ trong đình và viên đạn cuối cùng của tôi găm thẳng
vào giữa ngực của thằng địch từng cùng tôi hát lớp Hạng Vũ biệt Ngu Cơ. Nó giả gái đóng vai Ngu Cơ còn đẹp hơn cả út
Nhạn. Tôi nghe tiếng hộc cuối cùng của nó mà như nghe tiếng gọi của Ngu Cơ sau
khi uống chung rượu độc.
Bệ hạ ơi...ơi... ơi...!
Ngu Cơ cùng
quân sĩ chết hết, chỉ Hạng Vũ còn sống. Hạng Vũ ngày xưa đứng trước Ô giang ngậm
ngùi trước khi tuẫn tiết. Tôi khi đó đứng trước sông Bình Di đau xót nhìn bãi
chiến trường đầy xác chết không còn phân biệt nổi ai Sở ai Hán nếu chỉ nhìn vào
làn da nét mặt, trước khi bị một thằng địch mắt man mác buồn ôm chặt tôi vật xuống
đất. Hạng Vũ không ai phong nhưng cả nghìn năm sau thiên hạ vẫn xem ông là đấng
anh hùng, dù bao nhiêu quân sĩ nước Sở ông dẫn qua Ô Giang đã không trở về. Còn
tôi, nỗi day dứt đeo đẳng mãi tới ngày hòa bình, cho tới tận sau này khi đứng
trước ống kính truyền hình, tôi từ chối danh hiệu anh hùng, vì tôi có xứng đáng
là anh hùng không khi cả tiểu đội tôi dẫn đi đánh trận chết hết chỉ mình tôi
còn sống, dù khoảng đời sau đó của tôi là vào tù ra khám, là lăn xả trong bom đạn
để lại chiến trường cánh tay trái tài hoa, là xây dựng lại phong trào cách mạng
sau năm Mậu Thân tan vỡ gần hết, là biến đình Khánh Bình thành nơi tiền tiêu bất
khả xâm phạm, nơi nuôi giấu cán bộ, bộ đội, nơi đóng trạm của chi bộ, nơi dừng
chân trước khi rẽ đi khắp vùng của mọi lực lượng, biến xã Khánh Bình thành một
xã anh hùng qua trận chiến hào hùng mùa xuân năm 1975, cũng như những trận tiêu
diệt Polpot sau này.
Đám cưới cô
đào Bạch Nhạn cùng ông trung tá rôm rả xứ Sài Thành cùng với lệnh ân xá khỏi tội
tử hình của tôi mà cả tôi cũng ngỡ ngàng. Má đưa tôi lên xe đi tù với ánh mắt
chao đảo những nỗi niềm. Trong đám bụi ngút trời sau xe, tôi nhìn thấy dáng má
gầy đứng bên cây đa mấy trăm năm tuổi. Tôi liên tưởng má với cây đa, mãi mãi vững
tồn cùng năm tháng không gì quật được. Bên cạnh má tôi, giờ chỉ còn em gái út,
sau khi lần lượt các anh chị, kẻ hy sinh người bị đi tù. Em gái út có đôi mắt
lì lợm, trong giờ phút đó càng nhau lại, thấy từng tia máu. Em hét lên khi xe
chạy: Anh Ba kiên cường nghe. Út sẽ đi
theo. Út đã đi theo con đường tôi đi và đã hy sinh trong một lần đưa cán bộ
qua sông. Một lần nữa giọt máu của má hòa trong dòng nước sông Bình Di. Má tôi
chỉ còn một mình đứng dưới cây đa sần sùi, rễ ngoằn ngoèo bò trên mặt đất, rễ
phụ buông mành phủ khắp cả không gian tím trời chiều.
*
Sau khi tiếp
quản, tôi bộn bề bao nhiêu việc vẫn chưa thể về làng. Má cho ghe đến tận bến
trước cổng ủy ban. Bước sải sải
vào cổng, má rổn rảng nói:
- Vừa được làm quan đã quên nguồn quên cội rồi hả ông quận?
Tôi lập cập
chạy ra, ôm má, mừng mừng tủi tủi:
- Con nóng ruột muốn chết mà hông sao dứt ra về được.
Chị Hai tôi,
người âm thầm đứng sau lưng tất cả chúng tôi, người nuôi quân thầm lặng, người
khóc thầm lặng cho mỗi cuộc ra đi, mỗi lần tử trận của các em, đẩy dạt cái máy
ghe qua một bên, phóng ào lên bờ, chạy đến ôm trọn cả má và tôi, khóc nức nở:
- Hai nhớ bây
quá. Thấy bây trên truyền hình mà muốn đập cái truyền hình để ôm bây.
Má nắm lấy
tay tôi:
-
Đi với má.
-
Đi đâu má?
-
Qua Châu Đốc rước út Nhạn. Nó từ Sài Gòn về.
-
Ủa, con tưởng.
-
Tưởng cái gì?
-
Tưởng Út phải đi di tản với chồng chứ.
-
Tưởng tưởng cái đầu bây. Nó vừa cho người đưa
thư về nè. Nó nói nó sẽ dẫn con về quê sống.
-
Hả?
-
Hả hả cái gì. Nó lấy ông trung tá là để cứu
bây khỏi chết đó. Giờ bây không đi đón nó, bây không phải là con người.
Tôi đi đón em
không phải vì đền ơn cứu mạng. Tình yêu còn hơn cả mạng sống con người. Tôi đi
đón người tri âm sẽ cùng tôi hát bài Phi
vân điệp khúc dở dang năm nào.
Má mang theo
ghe cả cây đàn tặng tôi năm ấy. Tay trái là tay thuận của tôi đã mất lâu rồi,
nhưng tôi đã tập đàn bằng tay phải cũng như chuyển qua viết bằng tay phải.
Không phải tôi mong chờ ngày được sum vầy cùng bà trung tá phu nhân, mà dường
như trong tôi, út Nhạn vẫn còn nguyên hình nguyên dạng trên ngôi nhà sàn cao ngất
ấy, chỉ cần nghe tiếng đàn là Phi vân điệp
khúc trong trẻo vang lên. Giọng ca của út Nhạn không còn trong trẻo như
ngày xưa, mà nặng nỗi niềm dâu bể.
Ai?... Ai
người tri âm? Một kiếp con tằm. Lăn lóc gió sương, đàn với ta réo kêu khúc tình
thương.
Mòn gót chân phong sương, dù nắng mưa chẳng phai tấm lòng son. Ta
với đàn trọn câu thủy chung, từng đêm ta vắt máu tim trao đàn.
Má hát bài Lý con sáo làm trước mắt tôi cứ chập chờn
đôi cánh sáo bay qua sông và hình dáng má tôi đứng dưới gốc cây đa buồn cô độc,
tay ẳm tôi, nhìn miết trên sông, ngày ông Sáu làm đám cưới với mẹ út Nhạn. Câu
chuyện của ba, má tôi và ông bà Sáu là câu chuyện không ai hiểu rõ. Nhưng với
tôi, má mới đúng là người nghệ sĩ tài hoa bậc nhất trong thiên hạ. Hai bên bờ
sông Bình Di, dập dềnh hoa lục bình tím ngát và vàng rực hoa điên điển. Một đàn
vịt ngừng rỉa lông, ngẩng cổ lên nghe má tôi hát.
Chiều chiều buồn nhìn con sáo bay
Nghe xót xa sáo bay về đâu
Thời gian tưởng chừng như giấc mơ
Theo tháng năm mái tóc bạc phơ.
T.T.T.H
HOÀNG THỊ
TRÚC LY
LỤA LÀ ẢO ẢNH
Cô ngồi lơ
thơ ở góc sân. Phía đó, những bông lau trắng xóa mái đầu. Cả tóc cả lau phất
phơ cuốn vào vài chiếc lá khô. Dường như trời lại sắp giông. Gió bắt đầu phật mạnh
mang hơi nước từ đâu tràn vào lành lạnh. Tay cô phe phẩy một bó cây trơ róc
xương, khô khỏng. Rất nhanh, ánh nhìn ngây dại đảo mạnh rực lên những tia máu.
Thu lãnh! Thu
lãnh! Thu lãnh!
Miệng gào
thét, tay cầm bó cây cứ vẩy liên tục vào khoảng sân. Gió ù ù. Sấm đì đùng. Chớp
giật liên miên. Gấp gáp và điên cuồng, cô bắt đầu giơ bó cây như một đám chổi sể
phang vào tứ phía. Vừa phang, miệng cô tiếp tục gào náo động cả khu nhà. Gặp
người nào đứng xớ rớ quanh đấy là cô phang không phân biệt. Hai nhân viên nữ của
trại giam nhào tới, một nhoáng họ đã trói được cô và khiêng vào giường. Việc
này, với họ dường như đã quá quen.
Nhưng không
phải khi nào cô cũng nổi điên như thế. Những khi tỉnh táo, đôi mắt ấy thật hiền.
Lại khéo làm trò nên trẻ nhỏ bị tạm giam cùng mẹ trong khu nhà rất mến. Cô thường
làm trò khi lũ trẻ ăn, lại kể chuyện có duyên. Cô có khiếu dụ trẻ. Nghe nói,
trước khi vào đây cô từng là giáo viên.
Hôm ra hầu
tòa lần đầu, mới nghe đọc cáo trạng, cô cứ lắc đầu liên tục, nước mắt ngắn dài
rồi hóa cơn điên loạn mà ngất đi. Không thể tiếp tục xét xử, phiên tòa phải dời
lại. Những người giam cùng phòng kể, khi ngủ cô hay mớ gọi mẹ. Dường như mỗi
khi yếu mềm nhất người ta luôn nghĩ đến mẹ, dù trẻ hay đã già. Hơn nữa, mẹ cô lại
đáng thương biết bao. Và dường như có một đứa trẻ trong cô đã chết đi cùng mẹ
vào mùa mặc nưa năm ấy.
*
Trời ngả về
chiều, những song sắt vàng vọt theo ánh nắng cuối ngày. Cô nằm đó, mái đầu xổ
ra như trăm ngàn sợi tơ rối. Những sợi tơ mòng mòng quay, mòng mòng tua lại ký ức
đau buồn. Xứ lụa hiện lên theo tiếng thoi đưa, rầm rập quanh năm từ những khung
cửi cứ mặc nhiên kéo sợi. Nghe đâu từ xưa lắm, nơi đây đã là thủ phủ của lụa tơ
tằm, nổi tiếng bậc nhất Nam kỳ. Vùng đất cù lao trù phú được bao bọc bởi hai
con sông lớn có khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi để hình thành và phát triển nghề
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khắp xứ này, đâu đâu cũng bạt ngàn vườn dâu, bát
ngát những hàng mặc nưa soi bóng xuống mặt sông lộng sóng. Ở đó, từng có một
gia đình yên ấm, chồng trồng dâu, nuôi tằm, vợ dệt vải. Cuộc sống cứ ngày một
phồn thịnh khi đứa con gái chào đời, rồi họ trở thành lái buôn lụa. Những tháng
năm ấy, thương nhân xứ lụa cũng không kém cạnh gì công tử Bạc Liêu. Tuy vậy, họ
vẫn tự tay chăm sóc vườn dâu, nuôi tằm, nhân giống mặc nưa và cọc cạch ngày đêm
bên khung cửi.
Để làm ra một
mét vải có mười ba ngàn sợi tơ chạy ngang, nghĩa là có một trăm lẻ bốn ngàn con
kén được chập thành tơ. Người mặc làm sao có thể tưởng tượng ra được mình mang
trên người tinh hoa của từng ấy kiếp tằm? Không biết có phải vì như thế mà người
vợ nhất quyết không bao giờ khoác lên người tấm lụa nào, dù bấy giờ đã là bà chủ
giàu có. Trong khi cả xứ này, đàn bà con gái ai cũng chỉ ao ước được một lần
khoác lên mình y phục lãnh Mỹ A. Cái loại vải gì đâu, trải qua trăm vạn lần đớn
đau lại càng thêm bóng, thêm mịn. Mùa đông mặc vào ấm áp, nồng nàn như có lửa
sưởi. Mùa hè xỏ vô lại mát mẻ, nhẹ tênh như có gió lùa vào da thịt.
Nhưng chị lại
thích khoác lên người con gái bé bỏng thứ tơ lụa óng ánh, mỏng mảnh ấy. Câu nói
sống trong nhung lụa áp vào cuộc đời
cô bé như một định mệnh. Cô chủ nhỏ của xưởng buôn lụa vang danh khắp vùng. Cô
bé lớn lên trong guồng quay sập sình của khung dệt, của mùi lụa còn hăng hắc vị
tằm dâu và cả nhựa mặc nưa bao lần làm mặt mũi lấm lem. Cái thứ màu đen nhức mắt.
Chả hiểu sao,
từ ngày bắt đầu biết phân biệt màu sắc, cô bé chỉ thích mặc độc thứ lụa màu trắng
ngà ngà như sữa - màu nguyên thủy của tằm tơ. Cô không thích loại lãnh đen nhìn
vô nhức mắt. Cái sự nhức mắt ấy là do hồn cốt của mặc nưa đem lại. Cả một dải đất
rộng dọc theo cù lao, chỗ nào đủ rộng để cắm một gốc mặc nưa là người ta không
bỏ hoang chỗ đó bao giờ. Lớn hơn một chút, cô bé đã đùa giỡn trong vùng trời
tràn ngập bóng râm của tán mặc nưa. Hoa mặc nưa lưa thưa vàng rụng đầy sân, đầy
tóc, làm rực rỡ thêm nắng hè. Thứ cây gì mà đỏng đảnh. Đất mỡ màu thì đâm cành
nhánh sum suê, chi chít bông mà chỉ toàn bông đực. Đất bạc cằn thì cho trái nhiều
nhưng quả nào cũng đèo đẹt. Mùa nào, cha cô quên chạm vào thân rễ là y như rằng
mùa ấy cây không thèm cho trái. Sau những đớn đau, cây mới bắt đầu khai hoa nở
nhụy.
*
Huyền thoại về
mặc nưa, từ những ngày mẹ cô còn vừa cõng con gái nhỏ trên lưng vừa nhuộm lãnh
đã kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần. Xưa kia ở xứ tằm tang này từng có một
hãng tằm nổi tiếng. Con gái chủ hãng tằm, dáng người tròn lẳn, da thịt hồng
hào. Tóc nàng dài khẽ kẹp hờ hững ngang lưng. Ngày nào, nàng cũng mặc một bộ
lãnh màu trắng ngà, cổ đeo vòng xuyến, ngồi giữa những khúc lụa thành phẩm, mắt
đăm đắm nhìn không rời, tay mân mê theo từng thớ thịt vải để kiểm tra mặt lụa
trước khi giao cho thương lái. Cảnh ấy làm bao chàng trai xao xuyến. Trong hãng
tằm có anh thanh niên chuyên cắt dâu cho tằm ăn, đem lòng tương tư nàng. Lão chủ
biết anh chàng là người chịu khó, đã quyết việc gì là tìm cách làm cho được. Ví
như việc anh lặn lội lên tận miệt Tây Nguyên để học cách lai tạo giống dâu cho
lá to bản và nhiều cành nhánh.
Tâm tư của
chàng đã không qua mắt được lão nông tinh khôn. Một ngày nọ, ông gọi anh tới và
hứa sẽ gả con gái cho nếu anh tìm được giống cây mặc nưa. Một loại cây cho trái
nhuộm lãnh đen nhức mắt đang lan truyền ở đâu tận miệt Cao Miên. Được lời như cởi
tấm lòng, người thanh niên hồ hởi gói ghém hành lý, tìm đường đi kiếm mặc nưa,
dù anh chưa biết hình thù nó ra sao. Năm dài tháng rộng trôi qua, trời không phụ
lòng người. Cuối cùng anh cũng trở về với những cây mặc nưa non được bọc tốt
tươi trong từng bầu lá. Anh lại phải đợi năm năm nữa, năm năm chăm bón để đến
ngày mặc nưa cho trái rồi tự tay nhuộm ra tấm lãnh đen huyền thì ngày ấy anh sẽ
không phải chỉ đứng từ xa ngắm người thương ngày ngày ngồi giữa đám lụa.
Sáu tháng nắng
chan chát đi qua, sáu tháng mưa sụt sùi kéo lại. Thấm thoát cũng qua hơn mười
mùa mưa nắng. Ngày nâng những trái mặc nưa đầu tiên, đôi tay đầy những vết chai
sẹo của anh run run trong ánh nhìn sáng rực, mừng vui khôn xiết. Mới tinh mơ của
một ngày đầu tháng ngâu, anh thức dậy cho mặc nưa vào cối, dùng loại chày lớn nện
thình thịch vào lòng đá như người ta giã gạo cho đến khi vỏ mặc nưa nát băm chỉ
còn là một thứ cặn nổi lờ nhờ trên mặt nước. Lúc ấy, anh nhúng toàn tấm lãnh vừa
mới luộc trên bếp cho trôi hết chất keo của ông tằm. Lần nhuộm đầu tiên mất
chín ngày với hai bảy lần nhuộm rồi giặt xả, phơi rồi lại nhuộm. Cả một vùng cỏ
tranh, anh vạt lưng chừng thân, đủ để nương được xác lãnh, rồi lại dùng tay vuốt
khắp lượt để cỏ mất đi độ sắc, để chúng ngoan ngoãn nằm la đà nâng niu không
khiến lãnh bị trầy xước. Vờ như khi nâng tấm lụa trải lên cỏ, anh đang mơ ngày
nào không xa nữa, được nâng tấm thân tròn lẳn, mềm mại của người thương.
Tiết cuối hạ
đỏng đảnh, nắng đó rồi mưa đó. Khi lượt nhúng thứ hai bắt đầu, trời đổ ào trận
mưa. Lãnh nhuộm mặc nưa không nắng chẳng khác gì lúa úng nước lại phải cắt ngay
lúc trời mưa dầm, hạt lúa không lên mầm cũng xỉn màu đất, có nước làm thức ăn
cho súc vật. Phận lãnh cũng không sáng sủa hơn, lem nhem như một tấm giẻ lau. Sự
đời, thoáng cao quý rồi cũng vèo thấp hèn ngay. Chỉ tiếc công người nhuộm, long
đong như thế trong chín ngày. Da ba là một quy trình nhiêu khê. Mặc nưa phải
hái từ khi trăng vừa nhú để kịp khi gà gáy bắt đầu bỏ vào cối giã. Để sợi tơ ngấm
nhựa cho vải đằm và bền màu, anh phải canh chỉnh lượng nhựa. Thừa nhựa, thân vải
nặng trịch. Non nhựa, màu lên không đủ sâu, rất dễ phai mờ. Để ngâm như thế cho
đến khi sợi vải ngậm ứ và trải màu no căng. Lại phải được nhuộm nắng giòn để mặc
nưa bám mịn vào mặt lụa. Đến đây mới xem như được già nửa quy trình. Trái mặc
nưa vẫn phải canh hái khi còn tươi xanh. Mặc nưa khi chín sẽ không còn nhựa, để
qua đêm nhựa cũng bớt lên màu. Anh thanh niên nắm chắc bí quyết được truyền từ
xứ người, quyết làm ra thứ lụa hảo hạng. Đêm ngày anh miệt mài nâng niu tấm lụa.
Nước nhuộm thứ tư, mắt anh căng ra để chỉnh cho nước mặc nưa lên no đều trên tấm
lụa. Sau đó cây vải được đưa vào đập cho từng thớ sợi vỡ lở, nhựa mặc nưa mặc
tình len lỏi vào tận sâu lõi tơ. Chàng vỡ òa, khi mặt lụa bắt đầu bật lên màu
đen nhưng nhức. Rồi nước thứ năm, nước thứ sáu tuần tự diễn ra. Mặt vải bóng
láng, mềm mại mơn man trên tay. Ấy là khi nó trải qua bao nhiêu lần đớn đau cứ
đập rồi giặt lại ủi, không đếm được bao nhiêu lần. Chỉ biết rằng khi ấy, đôi
bàn tay to bành chai sần kia cũng thuần túy thứ màu mà không nước sông nào có
thể tẩy rửa sạch nữa. Những móng tay đen thủi như móng quỷ lại là bảo chứng được
sinh ra từ tình yêu mãnh liệt và bền bĩ như chất nhựa mộc thủy tích tụ vĩnh hằng.
Nếu có ai hỏi anh về số lượt giặt nhuộm, anh cũng không thể đếm xuể tựa như khi
hỏi anh yêu cô gái ấy bao nhiêu. Sắc đen huyền lấp lánh mà khoác lên tấm thân mỹ
miều của người anh thương sẽ không có từ nào diễn đạt được hết vẻ diễm lệ ấy. Tối
đó, anh đã ôm tấm vải mà mong trời mau sáng.
Bí quyết nhuộm mặc nưa đã nhanh chóng được lão
nông tinh ranh nắm giữ. Anh đứng ở hàng cau, trong nhà chủ đã nườm nượp người
qua lại. Hôm ấy là lễ dạm ngõ của người con gái anh thương. Lão nông đã thất hứa,
gả con gái cho một thương nhân lụa mãi tận miệt Cao Miên. Tấm lãnh đen óng rơi
nhẹ xuống thềm cỏ. Nắng xiên qua hàng cau, đổ tia sáng óng ánh soi những giọt
nước mắt rơi xuống chưa kịp lặn trên mặt bóng loáng của tấm lụa. Ấy là nước mắt
của kẻ bị phụ bạc hay nước mắt của kẻ tình si hay là mồ hôi nước mắt của một
người thợ nhuộm khi thành quả giờ chỉ còn một màu đen nhức nhối?
Nhưng lão nông tinh ranh là thế, vẫn không thể
tự làm ra tấm lụa đen nhức mắt ấy. Thứ vải ông cho thợ nhuộm ra chỉ lem nhem
như những vệt mây trắng đục pha màu xám khi giông tố chuẩn bị chiếm lĩnh bầu trời.
Xưởng vải lụn bại dần sau một hợp đồng lớn thất bại vì lụa thành phẩm không đạt
yêu cầu về màu sắc. Người con gái vì muốn cứu sản nghiệp của gia đình, trước
ngày cưới hẹn gặp anh thợ nhuộm để mong tìm ra nguyên nhân. Dưới bóng mặc nưa
trổ bông cuối mùa, nàng bận chiếc áo lụa trắng ngà và chiếc quần lãnh đen từ
chính tấm vải đầu tiên anh làm ra. Mặt quay về phía bờ sông. Gió từ đồng thổi
ngược sau dáng nàng. Quần lãnh đen ôm rít vào hai bên hông tròn lẳn. Trong giây
lát, anh ngỡ ngàng rồi bổi hổi khôn xiết. Có nằm mơ anh cũng không tưởng ra được,
mảnh vải ấy khoác lên tấm thân kia lại tôn nhau lên đến vậy. Thế mà vóc dáng ấy
nay mai anh sẽ chỉ còn được mường tượng trong những giấc mơ. Như đọc được tâm
tư của người thương, biết cô khó lòng mở lời, anh chìa một bó cây khô đặt vào
tay nàng. Dùng nó mà vảy nhựa mặc nưa lên mặt lụa ở nước da cuối cùng. Giọng
anh cuộn vào làn gió bay lơ lửng trên sông. Những cọng cây tua tủa nhánh mảnh dẻ,
trơ những đốt gờ vừa sần sùi lại mềm dẻo uốn lượn theo từng hồi gió.
Cô gái cầm chét chổi, nhìn anh hồi lâu rồi nức
nở vùng chạy. Nhựa mặc nưa như đổ tràn dưới chân anh thành chất keo cứng ngắc.
Đôi chân ấy dán chặt dưới bóng mặc nưa đang réo rắt quanh tai. Anh cứ ngỡ rằng
bóng dáng ấy sẽ mãi mãi chỉ còn neo trong tâm tưởng anh sự ngậm ngùi. Vì ngay
trong đêm, cả xưởng tằm đã về với sóng nước. Một trận lở đất kinh hoàng ở mép
sông đã cuốn phăng đi tất cả. Tin dữ đến tai anh khi bình minh đỏ rực nắng, anh
chạy đến xưởng tằm tìm dấu vết người thương rồi băng băng trên cánh đồng phơi
lãnh, cỏ tranh vẫn êm đềm nằm rạp dưới mặt ruộng mà đôi chân anh đã khuỵu xuống,
tưởng như không còn chút sức lực nào. Nắng đổ chan chát xuống mặt cỏ rồi sấm, rồi
chớp. Trời đổ ào trận mưa. Anh cứ ngồi bất động như phủ phục cho một cuộc tình.
Mưa tạnh rất nhanh, nắng lại đỏ lửa chiếu ngợp trời. Sợi tàn lan bay phảng phất
trong mênh mông, kết thành những tụm mỏng mảnh, trắng mềm phủ lên tóc anh, lên
tấm lụa đen mà mưa gió đã thôi không thể làm mình làm mẩy.
*
Con chính là một thứ lụa thượng hạng. Người mẹ
ngừng câu chuyện quay lại cưng nựng cô con gái. Mười đầu móng tay đen bầm của
người mẹ áp vào khuôn mặt đứa trẻ. Rồi chị giơ bó chổi ra trước mặt cô bé. Đây
là cây chổi tổ. Ngày ấy, cha cô bé đã cất công đi kiếm tìm tận vùng núi Ninh
Thuận thứ cây cỏ đặc biệt này. Lục lọi trong đám đổ nát năm đó, cha cô đã tìm
thấy người thương trôi lênh đênh trên mặt lụa, trên tay vẫn còn nắm cây chổi
anh tặng. Biết là duyên với tằm tơ chưa chấm dứt, anh đã thề khởi lại nghiệp dệt
lụa của nhà vợ trước vong linh của nhạc gia.
*
Ruộng nhuộm lãnh đang vào mùa cao điểm. Nắng
đương thì còn mặc nưa đương sai. Ít ai ngờ rằng cô chủ xinh xắn trong bộ lãnh
ngày nào giờ đang nhúng cây chổi vào thùng mặc nưa, tay vảy đều khắp lượt lên
mặt lãnh trải ra hong nắng cho ráo trước khi nhúng toàn bộ cây vải vào thùng
nhựa mặc nưa lần cuối. Đó là bí quyết gia truyền mà chông chị đã vì sức mạnh
của tình yêu mà có được. Lãnh Mỹ A xưởng nhà vì thế luôn ánh lên sắc đen huyền
lấp lánh hơn các xưởng khác trong vùng. Cái màu đen chết không đổi tính, nhưng nhức như thôi miên người mặc. Các quý cô, quý bà xem lãnh như
báu vật xa xỉ, chỉ dành mặc vào dịp lễ tết lớn.
Nhưng
dường như tiểu thư của xưởng lụa năm nào đã chết cùng trận sạt lở. Chị không
còn khoác lên mình thứ lụa ấy. Dù tự tay chị dệt, rồi tự tay khâu từng đường
kim mũi chỉ hết bộ lụa này đến bộ lụa khác cho cô con gái nhỏ. Xưởng ngày thêm
mở rộng, nó càng khuếch trương càng bòn rút tinh lực của người đàn bà chỉ mới
ngoài ba mươi. Cái màu đen thôi miên chị cứ mải miết phơi mình hết mùa mặc nưa
này đến mùa mặc nưa khác, mặc cho cái nắng táp vào mặt mũi và nhựa mặc nưa
nhuộm luôn màu tay, màu móng.
Bóng
dáng người con gái với thân hình tròn lẳn, bờ mông căng, nẩy lên sau lớp lụa
dưới tán mặc nưa trưa nào giờ chỉ còn chập chờn trong giấc mơ của ông chủ đang
ở độ sung mãn nhất.
Một
dạo, có người con gái thường tới lui xưởng, rồi ở hẳn trong nhà chuyên ngồi
quay tơ se sợi. Mỗi sợi dệt ngang được chập lại từ tám con, còn sợi dọc là chập
tơ từ mười con kén. Cô ấy lại kiêm luôn việc coi khung cửi. Thấy tơ hơi gợn lên
là cô dừng lại gỡ liền, lại rất khéo giấu mối nối nên cả tấm vải khi dệt xong
nhìn vô như được tạo ra từ một sợi tơ duy nhất. Ông chủ hay khen cô gái ấy là
người biết trọng lụa. Tiền công cô không nhận chỉ xin đổi bằng những tấm lụa
mặc trên người. Người đẹp vì lụa. Cô gái trông thêm nõn nường khi ngày ngày
khoác lên mình thứ tơ tằm thượng hạng. Cái giống lãnh Mỹ A càng ngồi càng nhẵn,
càng bóng, lại trải qua bao vật vã cùng mặc nưa nên mặt vải đen lóng lánh hoa
cả mắt. Mỗi khi cô gái dừng tay đứng lên, mặt lãnh rin rít dính vào da thịt,
rịn khoe đôi bờ mông thanh xuân vốn đã tròn mẩy thêm bóng nhẫy, căng đầy, bước
đi mà như dấm dúi vào mắt người đôi múi của quả bí đỏ đẫy đà đang đợi thu
hoạch, giữa nắng, múi bí nằm chềnh ễnh phơi mình quanh những cành lá đã trút
hết mọi nhựa sống truyền sang cho quả. Ông chủ xưởng mỗi lần nhìn thấy cô nhân
công đi lại thì ỡm ờ buông lời: Bên
nàng mặc lãnh Mỹ A. Đưa đò
sang chợ, tưởng xa hóa gần. Họ đưa đôi mắt cười tình với nhau. Chuyện này
nhân công trong xưởng rỉ tai xầm xì, chỉ riêng bà chủ vẫn cắm mặt ngoài ruộng
lãnh, buồn vui, lắng lo chuyện nắng mưa cùng những tấm vải.
Nhưng
như kẻ say rượu, những kẻ đang say tình cũng không thể che mắt được hết thiên
hạ, nhất là với người đầu ấp tay gối. Một ngày trưa rỡ ràng, người vợ từ ruộng
phơi lãnh trở về nhà. Ngay trên chiếc giường còn vương mùi khai nước đái của cô
con gái nhỏ, đôi gian phu dâm phụ trần như những nhộng tằm. Trong cơn uất ghen
tột độ, người vợ gào thét thảm thiết, rồi chị đảo quanh buồng, lục dưới góc
giường chiếc chổi tổ nghiệp. Như trào tất cả sự nén nghẹn từ bao lâu nay, chị
vật vã khóc rồi dùng hết sức bình sinh lao vào trút cơn hờn ghen quất liên hồi,
phang túi bụi vào hai tấm thân đang vội vã mặc lại áo quần. Phần xấu hổ vì lỗi
lầm, người chồng chỉ dám đưa thân mình ra chống đỡ. Tình yêu hiện thân của
những tấm lãnh bóng năm nào từng làm chị cảm động đến thề nguyền không một lần
nữa mặc lãnh Mỹ A, quên đi mình từng là một tiểu thư xinh đẹp phơi thân ngoài
ruộng lãnh, những móng tay đen thủi là sự đền đáp âm thầm cho tấm chân tình
ngày nào. Không thể kiềm chế, chị xông vào, anh xô vợ ra. Bằng luồng sức mạnh
vệ thân của người đàn ông đang tràn trề độ sung mãn, anh không thể ngờ cú xô ấy
đã lấy đi mạng sống của vợ mình. Hình ảnh cô tiểu thư dưới tán mặc nưa trổ bông
trưa nào hiện về, giờ nằm im lìm cạnh chân giường, máu từ đầu tuôn ướt thành
vũng.
Cô con
gái cứ đứng bất động như thế cho đến khi nhận thức được một điều gì kinh khủng
đang diễn ra, sau những cái lay, tiếng gọi hoảng hốt của cha, mà mẹ cô vẫn
không mở mắt. Máu nhuộm đỏ đôi tay cha, nhuộm lên bộ lãnh trắng ngà của cô bé,
nhuộm lên xưởng lãnh một màu đen nhức buốt hơn cả mặc nưa.
Mẹ mất, cha vô tù. Xưởng lãnh đìu hiu dù đêm ngày vẫn sầm sập tiếng khung
cửi. Mùa mưa năm ấy, mặc nưa không người chạm cành rễ, trái thưa thớt, lãnh
cũng vì mưa mà sụt sùi. Cây chổi tổ nằm lạnh lùng nơi góc buồng. Lụa vì thế mất
giá. Chủ xưởng trước khi ngồi trong song sắt đã kịp giao xưởng lụa và cô con
gái cho người tình coi sóc.
Cô bé vẫn ngày ngày sống trong nhung lụa, thứ lụa là giết chết gia
đình cô. Người trong vùng càng cám cảnh cô bé càng làm cho người mẹ kế từ sự
xấu hổ dần dà hóa sự căm thù. Công việc làm ăn thất bát. Những khi ấy, chỉ cần
nhìn thấy đứa con riêng của chồng là máu điên từ đâu chảy trong đầu, là bóng
dáng của bà chủ nằm gục ở chân giường lại cười nhạo trước mặt người mẹ kế. Chị
ta bắt đầu ôm đầu rồi giương đôi mắt rực những tia máu ra nhìn cô bé. Chị ta
xông tới, vớ cây chổi mà mới đây thôi bóng ma kia còn dùng nó để quất phang vào
thân chị. Chổi tổ không dùng nâng niu xác lãnh mà xé toạc chiếc áo lụa trắng
ngà đang bao bọc lấy một thứ lụa thượng hạng khác. Máu lần nữa, lần nữa, rồi
lần nữa nhuộm cho bằng sạch hết những bộ quần áo mà mẹ cô đã dùng tất cả sự yêu
thương để tạo nên. Con chính là một thứ lụa thượng hạng. Câu nói của người mẹ
lại ong ong trong đầu cô con gái nhỏ sau những trận đòn roi không cách nào
tránh né. Làm sao để thành một thứ lụa thượng hạng mà không trải qua số kiếp
của giã đập nhào lộn dứt day. Vậy nên mặc cho roi chổi tổ chưa kịp lành thì
những vệt roi mới đã lằn đỏ trên da, cô vẫn từng ngày phổng phao, yêu kiều như
một thứ lụa tinh hoa sau trăm vạn lần hóa kiếp.
Nhưng như mặt lụa trơn bóng mềm mại lại là ẩn sâu sự nát tan của tơ
sợi sau những bận rã rời của xác lụa, những lằn roi ăn sâu vào trong xương tủy.
Đêm đêm chúng lên cơn đau buốt, trở về trong bóng tối với vô vàn tiếng gào
thét. Là giọng ai oán của người mẹ quá cố, là cái nghiến răng ken két của người
đàn bà có bờ mông như đôi múi bí đỏ, là tiếng đét xẹt luôn không được báo trước
của cây chổi mà ngày nào đã se duyên cho cha mẹ cô, giờ quanh năm dọc ngang
trên da thịt. Cái giống cây trơ róc xương, trông mỏng mảnh mà vút vào người rát
ê ẩm. Hình ảnh đẹp đẽ của cánh tay người mẹ cầm chổi nhúng vào nhựa mặc nưa rồi
phết đều lên tấm lãnh ngỡ không thể nào quên, giờ đây đã thay bằng những thanh
âm chói tai, rùng mình ám ảnh, gặm nhấm cô mỗi đêm. Có những hôm giông lớn, gió
hú hét ở hàng mặc nưa sau nhà, người mẹ kế dựng đầu cô dậy. Vẫn roi chổi, vừa
quất vừa chửi. Mắt trợn trừng, răng nghiến chặt như muốn day, muốn nuốt lấy tấm
thân tội nghiệp kia đang không cách nào tự vệ. Nhát chổi cứ chập chờn trong
từng cơn mê. Bao nhiêu lụa là trên thân thể đều lần lượt bươm rách.
*
Năm tháng phai phôi, cô rời xa nhung lụa, dấu tơ tằm chỉ còn thổn
thức trong những giấc mơ. Xứ lụa giờ đây chỉ còn vang trong những lời ca tiếng
hát. Mặc nưa cũng thôi lưa thưa trong nắng hạ vàng. Cô bé tội nghiệp ngày nào
giờ đã là cô giáo, ngày ngày vui đùa bên lũ trẻ ê a. Người ta thấy cô son trẻ
mãi cho đến khi tóc nhuốm hoa râm vẫn thui thủi một mình. Đêm đêm, giữa thành
phố không ngủ, ngôi nhà cô giáo luôn tắt lịm khi mà ngoài kia, đèn đường mới
vừa bật sáng. Cô lầm lũi đi qua tháng năm khi tuổi hưu gõ cửa.
Những ngày vừa hưu, có khi một ngày cô đến trường hai lần. Chẳng để
làm gì, chỉ ngồi ngó bọn trẻ đùa giỡn vào mỗi giờ ra chơi. Có khi nửa đêm, cô
bật dạy cuống cuồng tìm cuốn giáo án cho đến khi sực tỉnh là mình đã hưu thì
không thể tiếp tục nhắm mắt. Những trận mất ngủ liên miên khiến cô sợ ánh sáng.
Nhưng trong đêm đen, người ta lại thấy mình bơ vơ và tột cùng cô độc. Cô kể cho
bác sĩ khoa thần kinh về những giấc mơ ngập ngụa máu và những bóng đen. Những
toa thuốc an thần dần trở nên vô hiệu dù đã dùng quá liều. Lần theo vài chữ
ngoằn nghèo ở toa thuốc, cô tìm hiểu về chứng rối loạn lo âu. Rất nhiều trang
trên internet chỉ ra rằng chỉ cần luôn có người xung quanh, luôn bận rộn với
công việc yêu thích, bệnh sẽ dần cải thiện. Rõ là, nguyên nhân sinh bệnh bởi cô
không còn gõ đầu trẻ, không còn được vui đùa, kể chuyện và la mắng mỗi khi
chúng phạm lỗi. Cô nghĩ mình đã tự tìm ra phương thuốc chữa bệnh cho bản thân.
Với tấm bằng chính quy, lại từng có tiếng là giáo viên dạy giỏi,
vậy mà không một trường tư thục nào nhận, ngay cả các trung tâm gia sư cũng từ
chối với lý do tế nhị là cô đã tuổi già sức yếu. Những lần đứng đợi xin việc,
lòng yêu trẻ lại trỗi dậy mãnh liệt trong cô. Cô nhớ nghề biết bao, thèm được
đến lớp biết bao.
Xứ lụa lên phố. Mặc nưa được chặt để xây khu công nghiệp. Phố cô ở
có khá nhiều gia đình trẻ. Họ là dân tứ xứ đến thuê trọ để đi làm công nhân.
Chiều đến, trẻ con chạy nhảy, nô đùa sau cả ngày bị nhốt ở trong phòng. Phần vì
phí giữ trẻ mắc mỏ, lương công nhân chỉ đủ bỏ vô miệng, phần khác là không có
giấy tờ hợp lệ nên có đứa năm bảy tuổi mà chưa được đến trường. Cô thường cho
chúng bọc bánh, cái kẹo nên bọn trẻ hay tụ tập trước cổng nhà cô. Thương lũ
nhỏ, từ nhận chăm giúp khi ốm đau, ngó ngàng khi cha mẹ chúng tăng ca, dần dà
mến chân mến tay, chúng đến ở nhà cô mỗi ngày. Hết múa hát, tập tô, tập vẽ đến
kể chuyện. Quần quật với lũ trẻ từ sáng cho đến chiều. Những ngày đầu chưa
quen, cô thấm mệt nên tối đến nằm vật ra ngủ. Nhưng sau quen dần, chứng mất ngủ
và mộng mị quay lại hành hạ cô bất kể ngày đêm. Cứ vừa nhắm mắt lại, máu và
bóng đen đổ ập xuống thân cô. Cái màu đen nhức mắt làm đầu cô choáng váng,
hoảng hốt rồi hãi hùng.
Cô thao thức triền miên, lắm lúc tính thôi không giữ nữa nhưng thấy
chúng quấn chân, kéo tay sà vào lòng, cô lại không đành. Trưa trời chang chang
nắng, đầu cô ong ong như có sấm giật muốn nổ tung bên trong. Thân thể mỏi nhừ,
cô thiếp đi khi những hạt mưa vội vã rơi chữa nóng. Chẳng biết trong cơn mộng
mị, cô đã thấy gì mà miệng cứ thì thầm gọi mẹ, nước mắt tuôn ướt đằm gối. Cô
bừng tỉnh khi tiếng của lũ trẻ la lên thất thanh, cùng một cú thịch mạnh đập
vào mặt tường xi măng. Một bé gái nằm thườn thượt, máu từ đầu đã phun hết khuôn
mặt rồi chảy thành vũng dưới nền men trắng. Những đứa khác bắt đầu gào khóc,
vài thằng con trai vẫn chưa thôi cào xé nhau. Cô lướt nhìn hết lượt cảnh tượng
đang diễn ra, phút chốc, cô ôm đầu, thân cứ xoay vòng tròn còn miệng la hét,
kêu rống lên như có ai đó đang quất vào thân mình. Lũ trẻ sợ hãi càng hoảng loạn
khóc lóc, càng giằng co, cấu xé nhau. Mỗi lúc thêm nháo nhào, trận đánh đấm kêu
than thêm thảm thiết. Cô ôm đầu chạy vào phòng. Lục lọi, xới tung mùng mền, lôi
dưới góc giường ra một túm cây chỉ còn lơ thơ vài cọng, cô đăm đăm nhìn vào túm
cây, mắt vằn lên những tia máu, xăm xăm tiến về phía lũ trẻ. Những cọng cây mục
nát rơi rắc khắp nhà khi cô vụt vào đám trẻ. Cơn thịnh nộ bộc ra trổ lên khuôn
mặt nóng bừng, cô tiếp tục gào thét, ôm đầu xoay vòng ngã vật vào cầu thang,
ngay khi ấy bàn tay chạm vào cán chổi quét nhà. Như một sự trả thù đã được nuôi
giấu từ bao năm nay được dịp, mắt vằn vện những tia máu đỏ ao, cô vùng dậy,
dùng cán chổi phang tới tấp vào những đứa trẻ đang inh ỏi kêu la trong bất lực,
cho đến khi người ta mở được cổng và công an còng tay cô, lôi đi như lôi một
tấm giẻ nhàu nhĩ.
*
Sáng hôm sau, trên
khắp các trang báo và mạng xã hội ngập tràn những tít giật gân: Cô giáo phù thủy; Bà tiên hay bà điên?…
H.T.T.L
NGUYỄN MINH PHÚC
SÓNG
BIỂN HỒN NGƯỜI
Ông Năm xếp gọn
mấy tấm lưới rách từ chiếc tàu lưới rút, bước xuống đi về phía cuối bãi, nơi có
những ngôi nhà tuềnh toàng, gió thốc ầm ào mải miết làm tơi tả những mái lá làm
bằng dừa nước, phất phơ như chiếc áo choàng thùng thình, choán cả những khoảnh
sân rộng đầy rác rưỏi, do sóng biển tràn về mỗi khi triều lên. Dáng ông đi hăm
hở, cánh tay vạm vỡ vồng lên và làn da đen như đồng hun, loang loáng dưới nắng
chiều. Biển ầm ào sau lưng ông. Những cơn gió chiều thao thiết chạy dài đuổi
trên những ngọn sóng, gầm gừ và tung bọt lên trắng xóa, lướt chồm lên bờ rồi
trườn nhẹ ra biển xa, nơi mà chúng vừa từ đó đánh dạt vào bờ.
Những bước
chân nặng nề. Đầu ông ong ong về một cái tin vừa nghe trên đài hồi tối: Bắt đầu
từ ngày mai, bọn người tự xưng là nước lạ
cấm không cho ngư dân ra biển của họ nữa - họ nói thế. Cái đường lưỡi trâu lưỡi
bò gì nữa, ông nghe không rõ, nhưng họ cho biết tất cả mặt nước trên biển là của
họ. Sao lạ vậy cà? Ông tự hỏi nhưng không trả lời được. Chữ nghĩa ông chưa đầy
lá mít, bao nhiêu năm đánh cá bắt tôm trên biển này có ai nói gì với ông về cái
lưỡi bò chết tiệt này đâu. Rồi những tên gọi vô cùng xa lạ như: hải lý, hải phận,
vùng tranh chấp, tài phán… Gì gì nữa mà ông nghe được. Mèn đéc thánh thần ơi.
Sao mà rối rắm vậy không biết. Ông phải lên ủy ban hỏi mới được. Ở xứ biển này,
cái gì không biết thì cứ lên thẳng ủy ban. Thằng Chủ tịch Bảy Nở chẳng nói vậy
là gì…
Những ngọn
gió chiều vẫn đuổi theo bước chân ông hối hả. Cát bay mịt mù từ những cơn gió
thốc bám đầy vào mặt mũi. Ông nghe có vị mặn của nước biển, xù xì của mấy hạt
cát lộm cộm tê đầu lưỡi. Gần đến nhà, ông cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Thây kệ, chuyện
gì trước sau gì mình cũng biết thôi mà. Mai cứ dong tàu ra biển rồi sau đó hãy
hay. Ngưng đi biển một bữa lấy gì đong gạo cho sắp nhỏ. Rồi gần tới ngày tụi nó
nhập trường. sách vở, quần áo… Ngày giỗ tới của bà Năm… Trăm thứ hằm bà lằn… Tất
tần tật trông vào chiếc tàu lưới rút này. Bỏ biển sao được dù chỉ một
ngày.
Đón trước nhà
chỉ là con chó vàng, bạn chí cốt của ông. Nhà có bốn đứa con còn nhỏ, hai trai,
hai gái. Vợ ông đã bỏ ông cách đây ba năm vì bịnh ung thư, chữa hoài không bớt.
Ngày đó ông buồn đứt ruột, chỉ muốn đi theo bà nhưng bầy con nhỏ nheo nhóc đã
níu chưn ông lại. Vợ chồng sống với nhau bốn mặt con, nửa đường đứt gánh hỏi
làm sao ông không sốc, không đau. Nhưng rồi thời gian cũng dần nguôi ngoai.
Nhìn mấy đứa con ngày càng lớn dần lên trong sự bảo bọc che chở của mình, ông cảm
thấy hài lòng và càng bám tàu, đi biển để nuôi nấng, cho chúng nó ăn học bằng với
người ta.
Ông vào nhà
thắp nén nhang trên bàn thờ cho vợ, lửng thững bước lại lu gạo, mở nắp ra. Chà
chà! Mới đây lại trống không, chỉ còn trơ đáy. Chiều nay, tụi con đi đâu hết
ráo. Ông quơ vội cái áo trên móc, hấp tấp đi thẳng ra nơi họp chợ gần ủy ban,
mua đỡ ít gạo và chai xì dầu ăn tạm tối nay.
Chiều xuống
nhanh và gió vẫn không ngưng thổi. Buổi chiều ở biển, không gian như quạnh quẽ
và vắng lặng làm ông cảm thấy cô đơn. Gió đuổi bắt nhau, hun hút từ ngoài bãi rồi
ập tràn vào sân nhà, mang theo vị mặn mòi của biển. Giá như vợ ông còn sống… Việc
này là việc của bà chứ đâu phải ông. Nấu cơm, giặt giũ, coi nhà cửa, trông chừng
sắp nhỏ… Giờ nầy còn bà, ông có thể mua xị rượu, rủ mấy ông bạn già lối xóm
nhâm nhi khô đuối, nói chuyện thời sự trên trời dưới đất, cười ngả ngớn, tám chuyện mấy bà sồn sồn giá chồng sau
cơn bão số 5… Sần sần chút nữa là chuẩn bị vô mùng. Ông vừa đi vừa lắc đầu, tặc
lưỡi mỗi lần nhớ tới chuyện vợ ông dứt khoát không cho đụng tới nếu người ông
có mùi ruợu. Rồi thì phải năn nỉ, ỉ ôi cả tiếng đồng hồ bả mới chịu cho ông gần
gũi. Mà tới đó thì mắt ông lờ đờ, sụp gọng rồi… đâu làm ăn gì được…
Những kỷ niệm xưa ùa về cào xé trái tim ông
như xát muối. Ba năm rồi xa vợ mà ông cứ ngỡ mới đây thôi, còn nghe tiếng bà cằn
nhằn, cử nhử mỗi lần ông uống rươụ say, mỗi lần ông chọc ghẹo mấy người đàn bà
mót cá. Ký ức trỗi dậy, như men cay quấn quít, nắm níu, dật dừ không dứt ra được.
Hình như ông đã già đi nhiều từ ngày vợ mất.
Sân ủy ban vắng ngắt, chỉ còn mấy cửa hàng
bên cạnh còn mở cửa. Chiều nhập nhọang từ những ánh đèn vàng bệt, hắt ra soi
chiếc bóng lầm lũi của ông. Mua vài ký gạo và chai xì dầu, mấy trứng vịt, còn
ít tiền lẻ chờ thối lại, ông chợt nghĩ sao lại không mua thêm xị rượu, tối kêu
thằng chủ tịch Bảy Nhỏ qua nhà nói chuyện chơi, sẵn ông hỏi luôn cái vụ lưỡi
bò, lưỡi trâu một thể. Nghĩ vậy, ông mua hai xị rượu, xin cọng hành lá rồi bươn
bả về nhà.
Đám con ông cũng đã về hồi nào. Chiều tụi nó
ra bãi mót cá, lượm bọc kiếm ít tiền lẻ mua bánh kẹo. Thôi kệ, trời sinh voi
sinh cỏ, chết đâu mà lo. Chỉ cái vụ không được đi biển mới chết. Ngang qua nhà
Bảy Nhỏ, ông gọi vói sang… Bảy Nhỏ nhận lời qua nhà ông uống rượu…
*
- Mầy nói tao
nghe coi. Vụ tàu quen, tàu lạ là thế nào, tao không hiểu. Còn lưỡi bò, lưỡi
trâu gì đó nữa. Tao chỉ biết đánh cá trên vùng biển từ hồi nào giờ. Vậy mà sao
lại có vụ cầm đóan nầy, Bảy Nhỏ.
Anh chủ tịch xã lưng còng như con tôm tích, mặt
ửng đỏ vì mấy ly rượu, nhìn ông Năm, chua chát:
- Là thế này,
chú Năm. Tình hình ngoài biển lúc này căng lắm! Bọn ỷ thế nước lớn, giành giựt
với mình mấy hòn đảo ngoài biển, rồi đơn phương ra lịnh cho ngư dân cấm bắt cá ở
vùng biển mà chúng đang tranh chấp. Hổm rày, tụi tui cũng nhận được chỉ thị là
giải thích cho bà con mình rõ vụ này. Mà cũng tức thiệt. Biển cả trước giờ là của
mình, nuôi sống bà con mình từ đời nào vậy mà tụi nó lại giành giựt. Có lạ gì
đâu chú ơi! Tất cả cũng chỉ vì tiền hết trơn trọi. Biển mình có dầu, có cá, tụi
tham lam không giành giựt mới lạ…
Ông Năm buột
miệng:
- Con mẹ nó!
Bộ hết chỗ giành lại lấn tới biển tụi mình. Rồi tụi bây tính sao đây? Tao dốt
ăn dốt nói, một chữ bẻ đôi không biết, nghe tụi nó cấm tàu ra biển mà tức anh
ách. Của mình đâu phải ai muốn làm gì cũng được. Tao nói vậy phải không, Bảy Nhỏ?
Bảy Nhỏ lúc lắc
cái đầu loăn quăn vài cọng tóc, gật lia lịa:
-
Đúng vậy, tụi tui cũng nghĩ y chang chú Năm. Nhưng trên có giải thích là mình
phải kiềm chế vì còn nhiều chuyện tế nhị lắm như quan hệ ngoại giao, mối hữu hảo
giữa dân họ với dân mình. Nói gì thì nói, mình phải tôn trọng. Mấy ổng ở trên
cũng tính nát rồi chứ không đâu. Thôi, chuyện gì để mấy ổng tính, mấy ổng không
bỏ dân đâu mà lo. Còn chú cứ việc đi biển. Ai nói gì nói, đường mình mình cứ
đi.
Ông
Năm cầm ly rượu đánh ực:
-
Tao nói thiệt với mầy nghe Bảy Nhỏ. Nếu mà tụi nó cà chớn giựt miếng ăn của tụi
tao thì chết tao cũng chơi tới. Chứ kiểu nầy ai chịu cho nổi…
Bảy Nhỏ dù hậm
hực nhưng vẫn can ông Năm:
- Bây giờ
mình cứ bình tĩnh đã, chuyện đâu còn có đó mà chú. Tụi tui cũng tính rồi. Sắp tới,
xã biển mình quy tụ bà con ngư dân thành lập đội tự vệ biển, tự lo lắng, bảo vệ
với nhau trong mỗi chuyến biển. Rủi có chuyện gì xảy ra trên biển cũng đỡ lo.
Chú thấy vậy được không? Bên biên phòng cũng hứa hỗ trợ mình tối đa. Yên tâm đi!
Tui thấy chắc rồi tụi nó cũng phải rút thôi vì sai trái quá. Ai đời…
Nói tới đây
đã nghe tiếng đứa con Bảy Nhỏ gọi ơi ới ngoài cổng kêu về. Liêu xiêu chân nam
đá chân chiêu, Bảy Nhỏ cà nhắc đi ra cổng, không quên quay lại lè nhè:
- Mai chú Năm cứ ra biển. Nói với đám bạn đừng sợ gì hết. Mà có gì… xã chịu
trách nhiệm…Tui chịu… trách nhiệm…
Ông Năm cũng đã ngấm hơi rượu, quờ dép bước ra sân, ngó mông về phía biển.
Gió thổi lồng lộng tạt vào căn nhà trống hoác. Bầy con ông đã ngủ. Một mình ông
đứng yên lặng hồi lâu, lặng lẽ thở dài. Nhiều đêm không ngủ được, ông lại đứng
một mình trước biển như thế, cô đơn đến nao lòng. Ông nghĩ đến người vợ tảo tần
của mình, những kỷ niệm đầy ắp ứ ngày còn chung sống với nhau. Đứng trước biển
đêm, tự nhiên ông thấy mình nhỏ bé và đơn độc. Những hồi ức cứ thế len lỏi,
xoáy cuộn vào từng khoảnh góc sâu lắng của tâm hồn.
Ông nhớ lại những ngày trai trẻ. Hào
phóng và kiêu hãnh, mạnh mẽ và dũng cảm, tâm hồn bát ngát, lồng lộng, phơi phới
như những con sóng bạc đầu gối mình vào cát. Biển với ông như hơi thở, như máu
thịt, là cuộc sống, linh thiêng lắm. Ngày ấy trên những chiếc tàu bạt sóng đi về
trên mỗi chuyến biển đầy ắp cá tôm, ông thường đứng trước mũi tàu, giương tấm
thân cường tráng và lưng trần gió biển, mắt đăm đắm nhìn mây trời đoán luồng
tôm cá, đoán trước bão giông. Những lượn sóng nhấp nhô kéo dài vô tận trước mắt
ông như ngã rạp trước mũi tàu, lượn lờ chậm rãi len từng bước nhảy dịu dàng
thân yêu trong mênh mang đại dương xa thẳm.
Tình yêu biển của ông mãnh liệt và
thắm đẳm yêu thương. Những ngày không được ra khơi, ông nhớ biển cồn cào. Làn
sóng nhấp nhô, hơi nước mằn mặn, những cơn gió bạt ngàn, hải âu lướt qua từng
đàn trước mũi tàu xé nước. Còn nữa. Tiếng sóng. Tiếng gió. Dịu êm và dìu dặt.
Rì rào và hối thúc. Trong mớ hỗn độn cuả ký ức một thời ngang dọc, ông với biển
như anh em, như máu thịt trộn vào nhau của những người thân thiết nhất. Chưa hết.
Biển với ông còn là những ban tặng hào phóng, không hề so đo, tính toán. Biển
cho ông cuộc sống, giúp ông nuôi nấng những người thân yêu, tặng ông những buổi
nhậu quắc cần câu, đầy ắp nghĩa tình. Biển mang lại cho ông người thiếu nữ
trăng tròn xứ biển, vì cảm mến chàng trai giàu nghị lực, dạn dày sương gió, đôi
vai vững chải cho cô dựa vào tin cậy mà về sống với ông. Biển cho ông đám cưới
tuy đơn sơ nhưng tràn đầy hạnh phúc. Ngày vui nhất đời ông, biển êm đềm chúc
phúc bằng những cơn gió nhẹ, những con sóng vỗ bờ dịu ngọt và đám bạn ngư phủ
lưng trần nắng gió vây quanh ông uống nghiêng trời, lệch đất, không say không về.
Ông và vợ đã kịp cho ra đời bốn đứa con mà ông cũng lấy những từ ngữ của biển
cả đặt tên cho chúng. Trường Sa, Hoàng Sa, Phú Quốc, Thổ Chu. Ôi, biển là gì mà
làm ông say mê, mộng mị, mê hoặc, vật vả đến thế. Ông yêu biển và cứ nghĩ nếu mất
biển, ông làm sao sống được. Không, ông không cho bất kỳ ai đụng đến hơi thở
mình, cuộc sống mình. Và nếu có chết để cho biển sống, ông cũng sẵn lòng thanh
thản.
Ông mê say, hạnh phúc tràn trề với biển. Chỉ một bất hạnh cuối đời mà ông
không ngờ tới. Đó là cái chết đau đớn của vợ ông. Chỉ vải tháng sau khi phát bệnh,
bà Năm, cô con gái xứ biển ngày nào một mực yêu thương ông, qua đời vì di căn.
Ông suy sụp hẳn một thời gian và tính bỏ biển, dắt díu đàn con nhỏ về quê nội ở
Châu Đốc sinh sống. Nhưng một lần nữa, biển đã cất tiếng kêu ông ở lại. Ông
nghe tiếng gầm gừ của biển hàng đêm, nửa trách móc, nửa như hờn giận sao ông
đành bỏ nó. Tiếng biển khoan nhặt, rầm rì, vỗ về ông trong từng cơn đau, xoa dịu
ông trong từng nỗi nhớ.
*
Ông lại hăm hở ra biển vào sáng hôm
sau. Bầu trời trong vắt đến nổi có thể nhìn thấy rõ từng cụm mây trắng trôi lờ
lững trước khoang tàu. Không đâu đẹp bằng
biển lúc bình minh. Mặt trời nhô lên như trái banh khổng lồ, đỏ chói và từ tốn
bồng bềnh nép sau làn mây giờ đã pha hồng, chiếu rọi ánh sáng đầu ngày trên sóng
nước. Cập vội mành lưới vào khoang tàu, ông vừa thoăn thoắt tranh thủ vá lại chỗ
lưới rách vừa dõi mắt nhìn về phía khơi xa. Những hòn đảo quê hương nhấp nhô ẩn
hiện lờ mờ phía chân trời xa và đám mây vắt ngang làm thành những đụn khói mỏng.
Đám bạn cùng đi mời ông ly nước trà quạu bốc khói.
Thường ông là linh hồn của những chuyến đi. Bao nhiêu năm làm nghề sông nước,
ông thuộc lòng từng luồn lạch dưới biển như lòng bàn tay mình. Ông có thể nhìn
ra chỗ nào có đàn có thu, cá nục, nhìn rất rõ từng luồng lạch cạn đầy san hô mà
đám tôm, đám mực ưa vào, chỗ của đám cá nhồng, cá nhám thường là vụng sâu, nước
xanh thấu đáy. Từ bục thang cao ở mũi tàu, ông sang sảng ra lệnh cho tài công
xê dịch tàu tới chỗ có luồng tôm cá và đám bạn cứ thế bủa vây dàn lưới rút. Ít
lần nào thất bại. Không cá tôm đầy lưới cũng cỡ lùm lùm góc tư. Chuyến tàu nào
có ông đi theo đều mang về đầy cá tôm, mực thẻ. Người ta có lần đặt luôn biệt
danh cho ông là ông Năm biển.
Nhưng sáng nay, một chút linh cảm mơ hồ nào đó thoáng qua đầu ông khi đưa hớp
trà nóng lên môi. Vị mặn mặn của biển từ đâu ấp tới choán hết mùi thơm của ly
trà nóng. Ông lơ mơ nghĩ đến người vợ đã mất tự nhiên xuất hiện trong đầu, lơ
mơ nghĩ tới tuổi già sầm sập sau lưng, đuổi bắt ông trong cõi người ngắn ngủi.
Và những con sóng. Chúng như vồ vập nhảy múa trên thân thể ông, miên man, ve vuốt.
Rồi bất ngờ, chúng nhảy chồm chồm lên ông với cơn cuồng nộ. Chúng giật xoáy,
quay tròn, lồng lộn, cuốn hút ông vào tận đáy sâu thẳm của đại dương bằng những
đợt sóng lưỡi búa rồi lại êm đềm đưa ông nhẹ nhàng, dịu ngọt trở lại bằng cánh
tay êm ả. Ông mở mắt qua cơn mộng mị và giật mình thấy mình vẫn đang ngồi trên
khoang tàu, trước mắt là đám bạn đang hăm hở chuẩn bị bủa lưới.
Thôi, chắc là tại uống rượu tối qua với Bảy Nhỏ giờ còn lâng lâng. Sao kỳ vậy
ta? Ông tự chế giễu mình rồi nhanh chóng tiến về phía đám bạn, chỉ dẫn họ cách
bủa lưới cho hiệu quả. Những tiếng cười vỡ ra, long lanh mặt nước khi mành lưới
được thu về. Chừng trăm ký cá chim. Ngày đầu tiên như thế là đạt yêu cầu. Mẻ này
về thì khỏi lo chuyện tựu trường sắp tới của đám con. Rồi còn chuẩn bị đám giỗ
cho vợ nữa chứ. Bao nhiêu thứ hằm bà lằn khác trông chờ vào chuyến biển này,
ông vái thầm trong bụng, xin bà cậu giúp mình.
Ngày thứ hai, thứ ba không đạt lắm. Chỉ vài chục ký cá nhồng, cá bạc má.
Đám cá thu, cá ngừ đâu không thấy. Tụi mày giờ chắc lăn tăn ngoài Hoàng Sa rồi.
Hãy đợi đó. Ba ngày nữa tàu tao ra đó, tụi bây thoát được à! Rủ bơi thành từng
đàn nhiều nhiều đi nghen mấy cưng. Gì chứ lưới tao chứa cả sư đoàn tụi bây cũng
được, chẳng giỡn đâu…
Nhưng tự nhiên trong ông lại nổi lên niềm ưu tư mơ hồ. Những tên gọi lạ hoắc
chợt xuất hiện… tàu lạ, đường lưỡi bò, vùng tranh chấp, tụi ngư dân lạ hung
hãn… Nhưng chỉ một thoáng sau đó, nỗi lo âu biến mất. Sợ gì chứ? Biển của mình,
cá tôm của mình, chứ mình có đánh trộm, ăn cắp của ai đâu mà lo. Bao nhiêu năm
nay mình đánh cá, làm ăn trên biển, ai đâu cấm đoán. Chẳng phải thằng chủ tịch
Bảy Nhỏ đã từng nói có đội tự vệ bảo vệ biển, có các chú biên phòng canh giữ rồi
à? Mình cứ lo bò trắng răng. Ông lảm nhảm rồi bật cười khan trước suy nghĩ lởn
vởn loanh quanh trong đầu.
Đúng như ông dự đoán, ngày thứ sáu
khi đánh lưới gần đảo Hoàng Sa, một mẻ lưới nặng trĩu cá thu, loại cá được thu
mua giá cao nhất, được cất lên. Cả tấn chứ chẳng chơi. Sau khi thu lưới, cá được
chuyển vào hầm ướp đá rồi ông mới hả hê cười khà. Vậy là sấp nhỏ khỏe nhá. Có
tiền xúng xính mặc đồ mới dự khai giảng rồi nghen, các con. Bà nhà cũng đừng
lo. Chuyến này tôi làm giỗ to cho bà, rủ cả làng biển của mình cùng tham dự. Nhờ
sự động viên của thằng Bảy Nhỏ nên tôi làm luôn mâm cơm đãi cả ủy ban, nghen
bà. Tui dân Nam bộ mà, bi là bi, mình chơi ngon mới được…
Những suy nghĩ lướt qua đầu ông, chập chờn nhảy múa loạn xạ cả lên. Nhưng rồi
ông chợt tỉnh hẳn người ra khi thấy từ xa, xuất hiện những đốm đen rất lạ. Ông
lên bục thang trước mũi, căng mắt nhìn về phía ấy. Những đốm đen xuất hiện ngày
càng gần hơn, rõ ràng là sáu bảy chiếc tàu đang tiến gần về phía tàu ông. Sao lạ
vậy cà? Nếu có tàu quen, chắc là họ phải điện đàm báo tin hoặc xin cập mạn. Hay
là… Ông chợt nhớ tới câu chuyện tối qua với Bảy Nhỏ rồi giật mình ngoắc tay cho
tài công chuyển hướng quay lui…
Một, hai, ba… tổng cộng đến sáu chiếc tàu lớn to gấp đôi tàu lưới rút của
ông nhanh chóng dàn hàng ngang trước mặt. Những đụn khói đen sì bốc ra từ ống
khói tàu che gần hết biển số. Tàu ông mở hết công suất loa thông báo là ngư dân
Việt Nam đang đánh cá trên biển. Giọng chú tài công như lạc đi nhưng chẳng nghe
bên kia đáp lại. Chỉ những tiếng kêu lạ hoắc
lào xào, rang rảng và tiếng lên đạn răm rắp.
Toàn bộ sự việc diễn ra nhanh đến bất ngờ làm cả tàu ông không ai lường trước.
Đám bạn hốt hoảng chạy dạt hết xuống tàu, chú tài công xanh mặt run rẩy ngồi
trước bánh lái. Chỉ còn một mình ông đứng cạnh mũi tàu, đôi vai to bè rám nắng.
- Có chuyện rồi! - Ông kêu lên và dặn
tài công - Mầy cứ lái dạt xa tàu tụi nó ra, để tao ra trước nói chuyện.
- Không được đâu chú Năm ơi! Tụi ngư phủ này hung hăng lắm. Chú cứ ngồi
đây, coi tụi nó có yêu cầu gì thì mình đáp ứng.
Ông Năm khoát tay:
- Hổm rày, tao có nghe nói tụi cướp biển nầy rồi nhưng không ngờ là bữa
nay. Dứt khoát là không được. Biển của mình, tôm cá của mình sao lại sợ tụi nó,
lại để cho nó lấy đi…
Anh tài công năn nỉ:
- Nhưng tụi nó có súng, chú thấy không? Chú cứ cho cập tàu theo yêu cầu của
chúng, cho chúng lấy gì thì lấy, để bảo toàn tính mạng. Chắc chuyến biển này
mình mất sạch rồi...
Ông Năm như không nghe thấy gì, bước
thẳng ra phiá trước khoang tàu. Dáng ông hiên ngang, lừng lững, mạnh mẽ đưa hai
tay ra hiệu, khoát tàu lạ tránh xa tàu ông. Trước mắt ông, những đợt sóng òa ập
như hất tung người ông chao đảo. Tiếng la hét ơi ới, tiếng súng nổ chỉ thiên đì
đùng. Mặc kệ, ông cứ bước vững vàng trên đôi chân của người đi biển dày dạn
sóng gió, đứng trước thân tàu, tư thế uy nghi, đĩnh đạc, vẫy tay ra dấu cho tàu
lạ đi về hướng khác. Giọng ông bị tiếng sóng, tiếng súng nổ, tiếng máy tàu át
đi nhưng vẫn còn nghe sang sảng nhiều lần:
- Dừng lại, dừng lại… Đây là tàu ngư dân Việt Nam đánh cá trên biển của
mình. Các ông mau dừng lại… Các ông mau dừng lại…
Như không nghe lời ông nói, những chiếc tàu lạ vẫn áp sát. Từng con sóng òa
ập như xé nước lao vào tàu ông chòng chành, lắc mạnh. Rồi bất ngờ, một vòi nước
mạnh phun ra như xé gió, tạt thẳng về phía ông.
Ông quỵ xuống như thân cây bị phạt ngang. Không may cho ông, lúc chao đảo
ngã xuống, chân ông lại vướng vào mành lưới rút… Giàn lưới quấn lại và cùng với
vòi nước khủng khiếp của chiếc tàu không biển số áp sát, làm ông chới với ngã
nhào, bộ ngực trần cường tráng hứng trọn mũi neo phía trước đầu ghe. Những
giòng máu đỏ phụt lên cao, thành vòi bắn xuống nước dưới ánh nắng đầu ngày của
biển. Nước xanh bỗng đổi màu. Từng giọt đỏ lấp loáng, lấp loáng chảy dài theo
con sóng kéo tít ngoài khơi xa, đỏ rực cả một vùng biển rộng. Đôi tay ông vồng
lên đường gân xanh, ngón tay cái như nắm đấm vươn cao dưới bầu trời xanh trong,
rực rỡ.
…Trước mắt ông, hình ảnh người vợ thân yêu mờ ảo, đám con mang tên những
hòn đảo thân yêu của Tổ quốc hiện về. Cả gương mặt hớn hở, những bộ quần áo mới,
chiếc cặp sách xinh xắn của chúng trong ngày khai giảng, những bè bạn ngư phủ,
buổi sum họp rượu uống tưng bừng trong ngày giỗ vợ mà ông mơ màng mường tượng
cách đó không lâu.
Biển đã gọi ông. Người bạn thủy chung sâu sắc cuối cùng cũng mang ông về với
biển. Buổi sáng như trong hơn bởi những đám mây trắng đã bay đâu mất trên bầu
trời xanh thẳm. Và tiếng sóng rầm rì của biển miên man bất tận tiễn đưa ông đến
cõi nào bên kia, thênh thang lộng gió…
Câu chuyện tôi nghe về chiếc tàu lưới rút của
ông Năm biển do các ngư phủ kể lại toàn bộ là như vậy. Tàu cá của ông, sau khi
áp sát, bọn cướp lấy đi toàn bộ sản phẩm và đánh đập tàn nhẫn ngư phủ, rồi mới
thả về. Cả tàu, ngoài mấy người bị thương nhẹ và ông Năm tử nạn, còn tất cả vô
sự. Bạn bè đưa thi thể ông về chôn nơi xóm chài, mảnh đất trống hướng ra biển.
Mộ ông giờ đã xanh cỏ, trên đầu mộ có tấm bia ghi mấy dòng chữ: Tưởng nhớ người đã hy sinh vì biển đảo.
Mới đây, trong một lần công tác về xã biển,
tôi có gặp bốn đứa con đặt toàn tên đảo của ông… Hoàng Sa, Trường Sa đã lớn bộn,
theo nghề cha làm ngư phủ. Riêng Phú Quốc, Thổ Chu… được tỉnh đưa về trung tâm
bảo trợ trẻ em, nuôi nấng, cho ăn học.
Tôi lần mò về xã, gặp được Bảy Nhỏ ở sân ủy
ban. Anh ấy bây giờ chuẩn bị được đề bạt lên chủ tịch huyện. Vẫn mái tóc loe
hoe vài cọng muối tiêu và dáng đi lòm khòm như con tôm tích. Sau khi trả lời
tôi mấy câu vô thưởng vô phạt, anh cáo bận đi họp trên tỉnh. Tôi chờ nghe anh
nói gì đó về ông Năm biển nhưng không được, cuối cùng đành trở về tay không…
N.M.P
LÊ ÁI SIÊM
KINH
CÙNG
Có con riêng
với Năm Thái, ông Tám bắt đầu tính chuyện phải rời rẻo đất bên kinh Ô Rô, bởi sự
lùm xùm trong xóm. Chuyện nào chớ chuyện này thì bà Tám dễ gì tha. Năm Thái mới
chết chồng. Không lẽ chồng mới chết có bốn tháng mà đã mang bầu với người khác.
Coi hổng được, láng giềng người ta cười cho thúi mũi.
Dân Ô Rô cứ
xì xầm: Cái thằng cha Tám mắc dịch, cái miệng chu chu mà có duyên dữ, chân đi
hai hàng mà mấy bả thấy khoái. Bả nào hơi lẳng lơ là dính với thằng chả hết
trơn. Nghe nói thằng chả đi đâu không dám đánh con nít, sợ đánh phải con mình.
Nhậu ở đâu thằng chả cũng khoe cái của quý thằng chả bự, mấy bả chưa thấy, nghe
đồn thôi cũng thèm. Câu cửa miệng của thằng chả là đêm bảy ngày ba, vào ra không tính. Bà Tám đã sáu đứa đứng sàn sàn
đầu nhau, năm con với một thằng rồi mà thằng chả đâu có tha. Bả bị bịnh ung thư
vú mà phải mang cái bầu. May là mới phát hiện, bác sĩ biểu phải bỏ cái thai mới
điều trị ung thư. Bỏ được cái thai thì bả chạy chữa thuốc Nam, không biết uống
những thứ thuốc gì của ông thầy ngoài chợ mà bịnh lại giảm. Tới bịnh viện có mấy
lần, xạ trị mấy chặp rồi về. Sợ thằng chả mò vào như sợ cọp. Dính bầu nữa chắc
chắn bả đi đời. Thôi để thằng chả đi đâu thì đi, làm gì thì làm, bả hổng thèm
biết. Nhưng vụ Năm Thái mới chết chồng mà thằng chả còn không tha thì phải tính
với thằng chả. Sống còn phải để đức cho con chớ!
Năm Thái vừa
thắp nhang cho chồng vừa khấn: Ông tha
cho tui nghe ông. Ông bịnh tui chạy chữa cho ông, đâu kể gì thân xác, tiền bạc.
Nay tui lỡ nằm với cha Tám đầu ngã ba kinh, tui xin chịu tội với ông. Linh
thiêng ông phù hộ cho đứa nhỏ trong bụng. Biết đâu sau này nó nhang khói hết đời
cho ông. Năm Thái nói với người chết mà khôn thấy sợ. Mỗi lần thắp nhang, mỗi
lần an ủi ông chồng đã chết, Năm Thái thấy lòng nhẹ hẳn đi. Năm Thái nghĩ rằng,
ở bên kia, chắc ông Năm cũng tha thứ cho bà. Bởi hai đứa con gái thì một đứa đi
ở cho nhà ông giám đốc công ty tuốt ngoài thị trấn. Đứa nhỏ thì mới biết nấu
cơm, đi hái rau bên rạch Ô Rô. Dù gì thì tình nghĩa vợ chồng mười hai năm đầu
kê tay ấp. Ông hiền lành thì đâu nghĩ chuyện ác với vợ.
Rồi Năm Thái
sanh con, thằng con trai ba ký tám, bụ bẫm, khỏe mạnh, giống ông Tám từ cái
trán hơi trợt, mũi hơi tẹt và cái miệng chu. Thằng chả đúc khuôn rồi thì không
phải thử ADN, ngó là biết liền. Bà Tám nghe tin Năm Thái sanh con cũng xách hai
hộp sữa Ông Thọ, kiếm cớ tới thăm để coi mặt mũi thằng Tám con ra sao. Năm Thái thấy bà Tám tới liền bế con ngồi dậy,
giọng tỉnh queo: Chị Tám tới thăm cháu?
Bà Tám muốn ứa gan: Thằng chả tới thăm
con chưa cô Năm? Năm Thái vẫn tỉnh rụi: Chị
nói thằng chả là nói thằng nào vậy chị Tám? Bà Tám mỉa mai: Là cái thằng làm cô có bầu đó. Năm Thái
cười nhếch môi: Chị biết thằng làm em có
bầu hả chị Tám? Thằng nào vậy? Không bắt được trai trên gái dưới thì làm
sao mà nói. Con Năm này là con không vừa vặn gì. Bà Tám biết mình thua lý, tức
muốn trào máu họng, đành túm hai hộp sữa một mạch đi về. Cho mấy đứa nhỏ nó uống,
ngu hay sao mà đưa cho cái con trời đánh đó.
Đứa bé được đặt
tên Thêm. Năm Thái thường gọi nó là Thêm
Một, ý còn chừa chỗ để đặt thêm nữa, Thêm Hai, Thêm Ba gì đó. Năm còn trẻ,
còn sung quá mà, không chơi, không chửa đẻ cũng phí.
Ông Tám làm đủ
nghề, ai bảo đi vác lúa mướn cũng đi, đi móc mương cũng đi, làm phụ hồ cũng
làm, leo dừa, bửa củi, chở lúa chở trấu cũng chở, chạy xe ba gác cũng chạy tuốt,
sức khỏe có phần dư thừa, làm về còn ăn nhậu, còn chọc ghẹo mấy bà sồn sồn, ai
nháy mắt thì tới luôn, không cần biết hậu quả. Riết rồi nói tới Tám là người ta
gọi thằng chả, chẳng tôn trọng cái tuổi
đang bước vào tứ tuần của ông tí nào. Được cái là tánh Tám rộng, có gì ai xin
cũng cho, không tiếc. Mùa nước lớn, cánh đồng cỏ năn mênh mông nước, Tám bơi xuồng
đi câu, thả lưới, cũng được bộn cá, chiều về, xuồng qua mấy nhà lá bên kinh,
nghe tiếng Tám ơi, Tám... là ghé liền.
Thì ra, mấy bà ghẹo Tám chơi, ai dè, Tám trút cho một mớ cá, ghé năm nhà như thế,
Tám còn được mấy con cá nhỏ xíu. Bà Tám nghi: Ông đi từ sáng tới giờ, chỉ được mấy con tép nầy à? Tám cười: Bộ bắt cá ngoài đồng dễ lắm hả? Con Hai
phân công mấy đứa em đi với tía để kiếm cá. Tám trợn mắt: Học thì lo mà học, đã đói đâu mà phải đi kiếm từng con tép. Bà Tám
cũng là một phụ nữ giỏi. Bà bán la gim ở chợ vàm. Tan chợ thì thâu tiền góp, về
lo cơm nước cho chồng con, nhà cửa. Sách vở cho mấy đứa con đều do một mình bà
lo. Đứa lớn dạy đứa bé nấu cơm, hái rau, quét nhà. Con Hai chỉ huy đâu vô đó, mấy
đứa sau phải lo làm, đứa nào chống lại nó bắt đứng một chỗ, giam đói một bữa là
sợ tới già. Luật của nó là vậy, nghiêm khắc mà hiệu quả. Ông Tám rảnh tay mà
làm việc và ăn nhậu, chẳng cần phải tính toán, đã có người khác tính, ổng sống
theo cách của ổng, xả láng sáng về sớm.
Nghe đồn có bốn
bà bên kinh Rô có con với Tám. Đồn vậy thôi, chớ ai biết được. Ngay cả Tám cũng
không biết chính xác nữa là. Nhưng nhiều bà biểu con gọi Tám bằng tía, cho nó gần
gũi, còn được Tám giúp. Tám nghe những đứa bé gọi tía cảm thấy ấm trong lòng,
đôi lúc thấy hay hay. Ở cái rẻo gần như cách xa thế giới văn minh này, buồn thấy
mồ tổ, không rượu, không ghẹo qua ghẹo lại chút xíu thì thà chết còn hơn. Bà
Tám cũng không trách ổng, nhưng trách Năm Thái, chồng mới chết mà đã đú đởn. Cái
thứ gì mà nhịn vài tháng nữa cũng không nổi là sao? Cái mặt ông Tám cắt bỏ vô đứa
bé mà nó còn trợn mắt hỏi lại mới tức chớ.
Thằng Thêm Một
được sáu tuổi thì Năm Thái có bầu. Không biết tác giả của cái bầu lần này là
ai, nhưng người ta nghi cũng của ông Tám. Ông Tám không cãi cũng không nhận, mặc
kệ thiên hạ. Vậy là Thêm Hai chuẩn bị ra đời. Bà Tám chắc mẫm là con ông Tám rồi.
Ông Tám theo đám thanh niên ra thị trấn phụ hồ cả bốn tháng nay, không lẽ ông
Tám về thăm Năm Thái mà không thăm vợ con? Bà lại càng tức. Khi ông Tám về, người
ta thấy thằng Thêm Một chạy ra hỏi tía có quà gì cho nó không? Đó là người ta
nói lại chớ bà Tám đâu thấy. Ổng đi bốn tháng chỉ đem về cho mỗi đứa một cái áo
như là áo si - đa, đứa nào cũng khoái. Mấy hôm sau bà Tám thấy thằng Thêm Một mặc
cái áo si - đa mới mua, rộng thùng thình, tức muốn lộn ruột. Rồi chừng tháng
sau, bà thấy đám con nít nhiều đứa mặc áo si - đa hơi giống áo con bà. Bà lại lắc
đầu, thôi kệ, số mình lấy phải thằng chồng đào hoa thì đành chịu, không lẽ bỏ ổng
mà đi với thằng cha nào khác, già rồi, ai ngó tới. Con Năm Thái còn mây mẩy thì
ổng tới là đúng rồi. Nhưng cái nòi gì mà thèm cái đó dữ vậy?
Rồi Năm Thái sanh con. Con gái tên Hoa, nhưng Năm Thái
gọi: Thêm Hai để chọc tức những người
hay dòm ngó. Nó vừa giống Năm Thái, lại giống mấy ông trên cái rẻo đất nầy mỗi
người một chút, người ta nhận xét vậy. Bà Tám không tức giận gì. Giận gì cho mệt
xác. Mấy thằng chả thấy nhà trống vô đụt mưa, nhưng nhà dột nát nên thằng nào
cũng bị ướt. Thây kệ.
Những đứa con của ông Tám càng ngày càng lớn nhanh. Mới
đó mà ba đứa đã đi làm. Con Hai, con Ba đều có người tới coi mắt. Bà Tám trữ được
số vốn, với việc cho vay ở chợ nên đời sống cũng khấm khá. Ông Tám vẫn thoải
mái ăn nhậu. Làm thì làm, nhậu thì nhậu. Ai bảo con trong con ngoài thì cười tít mắt, khoái chí. Ở cái rẻo này, có
ai được như tao. Trời cho mà!
Không biết con Hai, con Ba đi đâu mà gặp hai thằng
chuyên nghề móc mương, nhà tuốt gần biên giới. Thôi gả nó cho rồi, hai đứa giống
má nó, biết làm ăn thì thế nào cũng khá. Con chị cưới tháng trước, con em cưới
tháng sau, cưới trước mùa mưa để dễ đi lại. Mùa mưa phải ghe xuồng vất vả lắm,
hai họ ăn nhậu cũng mất vui. Hai đứa về nhà chồng, nhà vắng hẳn, bà Tám thấy buồn
buồn. Bà tới nhà Năm Thái, nhưng lúc nào Năm Thái vắng nhà mới dám bước vô, gặp
thằng Thêm Một để làm quen. Lúc thì cho nó vài cuốn tập, lúc thì mấy trái cam,
lúc thì ít tiền. Riết rồi thằng Thêm Một tới nhà bà Tám chơi và gọi bà Tám bằng
má Tám. Bà bán ở chợ, đồ ăn ngon hơn, nên có lúc nó lừa má nó, nói là đi học ở
nhà bạn, nhưng kỳ thực nó ở chơi nhà bà Tám với ba chị và anh Hùng con bà Tám.
Ông Tám cũng thương thằng Thêm Một. Máu nào thơm thịt đó, nó là bản sao của
ông, không thương sao được.
Lần lượt con Tư , con Năm cũng có chồng. Con Tư thì
không cưới, theo người ta về miệt Cà Mau rồi ở luôn, năm sau đẻ ra một thằng
nhóc, bế con về thăm tía má. Ông bà Tám nhìn cháu ngoại bụ bẫm, cười tít mắt.
Đã quá, ông tự thưởng cho mình nguyên lít rượu, không thèm ngủ giường, ngủ ngay
hàng ba cho tới lúc mặt trời leo lên ngọn cau, không trách con sao không cưới hỏi, có khi như vậy mà nhẹ
nhàng cho cả nó và cả mình. Thằng Hùng cũng nhổ giò rồi, cao gần bằng tía. Đi
đâu cũng có cái đuôi là thằng Thêm Một. Vậy mà chúng nó cũng biết anh em, một
giọt máu đào hơn ao nước lã.
Thằng Thêm Một dễ thương, ai nói gì nó cũng cười cười,
dễ hòa đồng, không để bụng, lại có tính thương người, hay giúp đỡ mà không tính
công nên ai cũng mến nó. Bà Tám càng ngày càng thương nó, coi nó như con ruột.
Năm Thái từ không ưa gì bà Tám, dần dần thấy gần, thậm chí đi lại với ông Tám
như tình nhân, nhiều lúc ở lại nhà Tám, ăn cơm như người trong nhà. Bà Tám già
rồi, bả không cần ghen tuông làm gì, miễn ông Tám có trách nhiệm với con cái.
Ông Tám cũng hết mình, chỉ tội là hay nhậu và cái tính léng phéng vẫn không bỏ.
Năm bà Tám năm mươi chín tuổi thì ngả bịnh. Bịnh như dồn
từ thời nào dồn lại, mỗi ngày bà thấy yếu hơn, chở đi nhà thương thì nằm chừng
chục ngày rồi về, bịnh tim thì biết chừng nào lành. Bà kiên quyết về nhà. Chết ở
nhà còn được thấy con cháu, chớ ở nhà thương thì may lắm là thấy bác sĩ. Bà nằm
ở nhà uống thuốc Nam chừng hai tháng thì qua đời. Lúc bà nhắm mắt, thằng Thêm Một
đang cho bà uống thuốc. Bà không uống được, hai mắt trợn trắng, hai hàm răng cứng
lại, nó hét to: Má! Má đừng chết. Rồi
nó khóc òa lên. Ông Tám đang đi vác lúa mướn nghe tin, thả bao lúa giữa ghe, chạy
một mạch về nhà. Thấy mấy đứa con đang thắp nhang trên giường bà Tám. Đứa nào
cũng khóc thành tiếng. Ông như đứt ruột. Ba ngày sau, chôn bà Tám trên gò nhỏ,
ông nói với mấy đứa con:
- Từ nay, Năm Thái thay má con, lo nhang khói cho má
con. Tía đi vô kinh Cùng, mở một khoảnh đất để sau này các con có đất mà trồng
cây. Tía không đi mần mướn nữa. Mần mướn riết, không có miếng đất nào, đến chết
cũng không có đất chôn. Má con nằm đây cũng không yên, ít bữa mưa xuống, nước
ngập như láng biển, xương cốt rã hết.
Mấy đứa con đều im. Ổng đi mần mướn từ hồi nào tới giờ,
nhà chỉ có chút xíu đất, cất cái nhà, trồng mấy cây ăn trái đã hết, lấy gì chia
cho con cái. Rồi con cái cũng đi mần mướn theo ông mà thôi.
Ông nói là làm thật. Vài ngày sau, ông đốt ba cây nhang trước mộ bà Tám rồi
biểu thằng Hùng và thằng Thêm Một xuống xuồng, vô kinh Cùng, nơi không còn nghe
tiếng gà, tiếng chó nữa, cắm một cây sào, buộc cái áo rách trên ngọn sào, lội
lõm bõm, mỗi người một cây dao, bắt đầu cuộc chinh phục vùng đất mới.
Phát cỏ năn, cỏ lác, nước ngập trên mắt cá, không biết mùa nước nổi thì nước
tới đâu. Phát tới đâu cắm cọc tới đó. Ông Tám vẽ cho hai thằng con một tương
lai no ấm ở nơi này. Ở đây trồng một vụ thôi, vụ nước son thả thí vậy, giăng lưới
giăng câu kiếm cá, cũng đủ ăn, đi mần mướn gì cho cực, tía mần mướn cả đời rồi,
không mần nữa, mấy đứa bây phải có đất đai. Sản nghiệp mình ở đây, lo mà làm,
làm nhiều không bao giờ chết đói.
Cũng lạ, thời ông cố ông sơ đi khai hoang cả cái Nam bộ vậy mà chưa đụng tới
cái lõm ngập nước này. Chắc cũng đụng tới rồi, nhưng nước mênh mông vầy thì bỏ
luôn. Ông Tám biểu đất vô chủ, mấy năm trước cứ bám ở cái rạch Ô Rô khá lên
không được, chỉ biết làm mướn kiếm sống, chớ hổng biết làm gì, phải đổi đời chớ. Thằng Hùng ủng hộ ý tưởng táo bạo này, thằng
Thêm Một cũng theo luôn. Mấy ngày đầu phát cỏ mệt bở hơi. Riết rồi quen, ba tía
con đào một hố lớn, đắp cái mô đất rộng chừng tám thước vuông, che mấy tấm lá,
làm bếp, ngủ nóp như hồi xưa. Chẳng mấy ngày mà thấy cả dãi đất dài mút mắt. Từ
kinh Cùng nhắm vô, không còn thấy khói bếp của xóm nhà lá bên rạch Ô Rô nữa.
Thành địa chủ rồi, ông Tám chống nạnh cười khà khà, rồi bà con Ô Rô cũng vô đây
cả thôi, tao dám chắc như thế.
Mùa lũ năm ấy mới khủng khiếp làm sao. Nước dâng lên từng giờ, mấy cây tràm
giờ chỉ thấy ngọn. Cò về đậu trắng xóa. Hai công đất trồng thử lúa hai vụ của
tía con ông Tám phút chốc biến đi đâu mất, thay vô đó là chuột, cá, rắn ngỡ rằng
tiêu diệt không hết. Ngày ngày giăng lưới, ăn cá phát ngán, phải chở về cho
hàng xóm. Ông Tám gặp đám thanh niên trong xóm, hỏi: Trong số này thằng nào là con tao? Cả đám nhao nhao: Tui con tía! Tui con tía! - Thằng nào con
tao thì theo tao! Cả đám theo ông già Tám vô kinh Cùng, giăng lưới, thả
câu, ăn nhậu, ca hát, mấy hôm sau đem cả đờn vô, ca nhậu tưng bừng. Nước rút,
ông Tám xúi cả bọn ở lại, phát cỏ, khai hoang. Mùa đầu coi như thất bại, nhưng
mùa sau nước cũng lớn, thành láng biển. Ngó thấy ớn. Không lẽ bỏ cuộc. Tiếc mấy
mùa khai hoang, ông Tám lập một bàn thờ, thề với trời đất là không rút lui. Đói
cũng ở đây. Chết cũng ở đây. Cả đám thề cùng với ông Tám ở lại làm ăn.
Mùa thứ ba thì cây lúa lên xanh, nhưng đất phèn nặng nên thất thu. Ông Tám
ngồi suốt đêm, buồn rầu. Cuối cùng, với bản lĩnh của một thủ lĩnh, ông đứng bật
dậy, hét vang: Tao đắp bờ bao, tao không
chịu thua. Hét xong, ông xách dá đào hùng hục. Cả đám hỏi: Tía làm gì vậy? Ông nói: Tao đắp bờ bao, nước lớn bao nhiêu, bờ bao
cao bấy nhiêu. Bao chừng chục mẫu. Thằng nào thấy ớn thì dìa. Cả đám xách
dá làm theo. Hai tháng sau đó thì bờ bao hoàn thành. Công trình chống lũ của
ông Tám coi cũng hoành tráng lắm. Bờ bao thành đường đi. Đứng trên bờ bao nhìn
ra xa, ngút tầm mắt, chỉ thấy bóng tràm và những đàn cò trắng lấp lánh. Mấy đứa
tán: Tía là Sơn Tinh rồi! Ông Tám quắc
mắt: Thì tao là Sơn Tinh của vùng này chớ
ai! Năm tới, tao làm vài chục mẫu nữa à nghen. Kêu bà con Ô Rô vô đây. Bới móc ở
cái xó Ô Rô chi cho khổ.
Năm Thái tha mấy đứa con ông con bà
vô kinh Cùng với ông Tám. Một cái nhà cột tràm, lá dừa dựng trên đất mới, mỗi
ngày mỗi nới rộng ra tựa như một cái trại lính. Cây gì ông cũng trồng thử, nó
cho trái thì cứ trồng cây đó. Khóm, khoai mỡ coi bộ chịu đất phèn. Rồi cam quýt
cũng trồng được. Một giang sơn riêng mênh mông, nhìn sướng mắt. Lúa ban đầu bị
thất bại, không nản chí, ông sạ ba mùa liên tục cũng thất bại. Mùa kế tiếp may
thay cho năng suất khá, tuy không cao nhưng tạm cho là được. Năm năm sau thì
dân Ô Rô kéo vô ngày càng nhiều, họ tôn ông là Tám Tiền Hiền. Ông nghe tiếng Tiền
Hiền như ông thần, đã lỗ nhĩ quá. Ông cứ cười hề hề tối ngày. Thanh niên kinh
Cùng đều gọi ông bằng tía. Có đứa không biết gốc gác của mình thế nào cũng đặt
chuyện má nó có ở với ông Tám, nó là con ổng thứ thiệt.
Chẳng ai hơi sức đâu mà bỏ tiền đi thử ADN xem trong số thanh niên kinh
Cùng có mấy đứa thực sự là con của ổng. Ổng nhận hết, không cãi cọ ba vụ quá khứ
có hay không. Sướng cái là chúng nó gọi ông bằng tía.
Vùng kinh Cùng dần dần mất tiếng hoang vu. Mỗi năm lại có thêm vài gia đình
vô khai hoang, đắp bờ bao, mở đường. Năm ông Tám bảy mươi chín tuổi thì một ấp
mới có tên Kinh Cùng ra đời. Cái tên ấp Kinh Cùng là cái tên do chánh quyền đặt,
còn dân Kinh Cùng gọi là ấp Ông Tám, gọi cách nào người ta cũng hiểu.
Khi đường điện kéo vô Kinh Cùng thì cũng là lúc ông Tám ngả bịnh. Ông nằm
ngửa mà nhìn ánh đèn điện có nhiều tia phát ra sáng rực, lòng cứ sướng rơn. Ông
nằm như vậy suốt ba năm mới chịu ngay tay, nhắm mắt.
Bà Năm Thái cho đắp gò cao, chôn ông trên gò, còn đưa cốt bà Tám về chôn cạnh
ổng. Khi chôn xong, bà biểu mấy đứa con: Tụi
bây đều là con ổng hết. Bây giờ ông Tám bà Tám nằm đây, kêu bằng song táng. Khi
tao chết, tụi bây chôn tao cạnh ổng, cho ổng nằm giữa, hai bà hai bên, lúc đó
kêu bằng tam táng, cho người đời sau biết, nghe hông? Mấy đứa cứ tủm tỉm cười:
Nhớ, nhớ!
Cả chục năm sau, dân Kinh Cùng mới dựng một cái nhà nửa như cái đền, nửa
như cái đình, cột bằng gỗ thao lao, mái lợp lá, thờ ông Tám Tiền Hiền. Đám con
ông ngày ngày nhang khói, còn dân Kinh Cùng thì rằm, ba mươi, ai rảnh cứ lên thắp
nhang, coi bộ kính cẩn lắm.
L.A.S
|
|